Folklore và mô hình dung thông trong thi pháp tiểu thuyết của Chinghiz Aitmatov
TÓM TẮT
Folklore là nét đặc trưng trong tư duy và kết cấu của hầu hết tác phẩm Aitmatov.
Folklore tham gia vào toàn bộ cấu trúc tác phẩm tạo thành dạng cốt truyện đồng tâm,
không gian - thời gian tái sinh vô tận, nhân vật song trùng và tạo ra nhiều khả năng chủ
đề, mô hình dung thông trong thi pháp. Folklore trở thành bức bình phong để nhà văn thể
hiện thái độ tư tưởng chính trị một cách khôn ngoan, là một loại chất liệu đặc biệt để phản
ánh những vấn đề cấp bách trong đời sống xã hội Xô viết nửa sau thế kỷ XX, và những vấn
đề nhân sinh muôn thuở, tạo nên nội dung triết học đạo đức sâu sắc cho tác phẩm.
ọc tác phẩm với nhiều cách khác nhau, nhưng dù theo mối liên hệ nào, trong cách tổ chức văn bản, nhà văn cũng luôn ngầm ẩn một quy ước: hệ thống nhân vật folklore là tọa độ gốc. Ở đây, chúng tôi tập trung tìm hiểu tác phẩm Đoạn đầu đài (ĐĐĐ), hệ thống nhân vật có thể được sơ đồ hóa như sau: 88 Sơ đồ nhân vật trong tác phẩm Đoạn đầu đài Trong sơ đồ trên, chúng ta thấy không gian tác phẩm mở rộng từ đồng cỏ Moiuncumu rộng lớn đến cuộc sống tập thể hóa nông nghiệp ở một nông trang gần hồ Isuckul, và không gian Jerusalem trong huyền thoại Thánh kinh; thời gian tâm tưởng của nhân vật kéo dài đến gần 2000 năm, và đặc biệt, tác giả đã xây dựng nhiều bộ ba nhân vật tương ứng về tính cách, số phận và chức năng như Apdi - Jesu - Boston; Grisan, Caldalov - Pilat, Kaipha - Corcobaev, Bazaibai; Ingar - Maria - Guliumcan; Vợ Pilat - Tursun. Apdi - Jesu - Boston đều là những con người biểu tượng cho điều thiện ở những thời đại khác nhau, họ đều nỗ lực đấu tranh với cái xấu cái ác, với kẻ thù, và họ đều phải bước lên đoạn đầu đài của mình. Grisan, Caldalov - Pilat, Kaipha - Corcobaev, Bazaibai: là những bộ ba nhân vật đối cực với những nhân vật chính diện, họ biểu tượng cho cái xấu, cái ác trong xã hội, ví như Grisan (chân thọt) được miêu tả như là kẻ chống Chúa; Caldalov là kẻ “tháo vát” suy thoái; Pilat độc ác và kiêu ngạo, Corcobaev lẻo mép, sách vở và ngu dốt; Bazarbai sâu rượu, vô liêm sỉ Ingar - Maria - Guliumcan: Hình tượng những nhân vật nữ mang vẻ đẹp của sự nâng đỡ và tái sinh điều thiện bằng “Nữ tính vĩnh hằng”. Vợ Pilat - Tursun: là những người vợ hiểu biết và can ngăn chồng mình làm điều ác, song họ đều thất bại. Những bộ ba nhân vật này không chỉ được xây dựng trong diện mạo và chức năng như nhau, mà đặc biệt hơn, nhân vật trong câu chuyện hiện tại còn mang đầy đủ hình mẫu, sống bằng những ám ảnh và đam mê của nhân vật folklore. Tiêu biểu nhất là trường hợp Jesu và Apdi: Apdi mang tất cả lý tưởng điều thiện và bi kịch thập giá của Jesu. Cuộc đời và số phận Apdi như là hậu sinh của Chúa Kito, sau 2000 năm, anh vẫn mang đầy đủ những phẩm tính và bi kịch ấy. Ngay tên anh, “cái tên lạ lùng theo kiểu Cựu ước”. Là con của một trợ tế, và học trong chủng viện, từ khi anh biết cuộc đời thì “Anh đã thầm gánh chịu nỗi đau khổ của người trên vai mình tới mức òa lên khóc nức nở khi đọc đến đoạn Giuda phản bội Người trong vườn Hepximania! (ĐĐĐ, tr. 89). Tính chất cộng thông ấy trở nên cực kỳ rõ nét khi Apdi và Chúa Jesu cùng sống 89 và chết trong một niềm thống khổ: lý tưởng và bi kịch. Biên giới không gian và thời gian được nhà văn chú ý, nhưng là sự chú ý trong ý thức mờ hóa, hoặc đồng nhất: trước ngày họ lên đoạn đầu đài của mình, đều là một ngày nóng nực, oi bức, ngột ngạt, “những đám mây giông đã trở nên dày đặc và xám xịt” (ĐĐĐ, tr. 165), và đều là Ngày thứ Sáu, ngày chân lý và điều thiện bị chôn vùi. Trong lúc Apdi đang chịu cơn đau đớn của nhục hình (bị bọn tìm kiếm anasa đánh đập dã man, và bị đẩy ra khỏi toa tàu đang chạy với tốc độ khủng khiếp), một mình giữa thảo nguyên mênh mông trong cơn mưa đêm xối xả, ý nghĩ của anh hướng về con người bị đưa lên núi Sọ: “Thưa thầy, con đây! Con phải làm gì để cứu được thầy?”. Chính những ý nghĩ đó, khả năng sống trong sự trải nghiệm cùng một cảm giác với Chúa Jesu, bị ngăn cách hàng ngàn năm lịch sử đó, nhà văn gọi là “tính tương đồng lịch sử” (ĐĐĐ, tr.203). Tại sao có sự trùng khít, sự tương ứng tuyệt diệu đó? Theo chúng tôi hiểu, đó là một vòng tuần hoàn của lịch sử, huyền thoại về Jesu đang tái sinh trong bi kịch của Apdi: bi kịch của cái thiện trong thời hiện đại. Họ là những con người bi kịch và sống trọn vẹn với bi kịch của mình bằng sự hòa nhập với tinh thần trong ký ức, trong cảm hứng đó, nhà văn khẳng định: “cái thiện và cái ác được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong sự vô cùng tận của ký ức, trong sự vô cùng tận của thời gian không gian” (ĐĐĐ, tr.203). Trong câu chuyện “Sáu người và người thứ bảy” Sandro chia sẻ thế giới tinh thần và chia sẻ cái chết với “kẻ thù giai cấp” thì cái chết của Apdi trên đồng cỏ Moiuncumu trong trận săn bắn sơn dương đẫm máu vì anh khước từ phủ nhận niềm tin vào Chúa và anh muốn chia sẻ niềm tin ấy với tất cả mọi người. Sandro tự tử như là hình ảnh một kiểu mẫu cho sự kết thúc của Boston: sau khi giết kẻ khiêu khích mình, Bazarbai, anh nhận thấy rằng trong mình cũng không còn nhân tính. Sandro giết người với lý do “chính đáng” là Guram là kẻ thù giai cấp và trong phần ba của tác phẩm, sau 60 năm nội chiến, Bazarbai vẫn tuyên bố Boston là “một kulăc”, “một kẻ chống lại chính quyền” (ĐĐĐ, tr.306), nhưng tình thế đã thay đổi, Boston đã nổ súng. Máu đã đổ từ ngày đầu của lịch sử Xô viết biểu tượng bằng việc giết người và tự tử của Sandro, và hôm nay chu kỳ bạo lực ấy đã trở thành một vòng tròn hoàn hảo: “máu đã đổ trong cơn xoáy lốc luẩn quẩn và một lần nữa anh làm đổ máu để trả thù cho máu đã đổ” (ĐĐĐ, tr.81). Điều này gợi ta nhớ đến nhan đề đầu tiên mà Aitmatov dự định đặt cho tác phẩm là Vòng luẩn quẩn (8) - những bi kịch đồng dạng như là sợi chỉ xuyên qua mọi thời đại và đi tới số phận mỗi con người. Tính chất bi kịch là đặc điểm chung của nhân vật trung tâm, khởi đi từ nhân vật folklore những bi kịch ấy được đúc rút, chiêm nghiệm và phóng chiếu theo những chiều kích khác nhau (Jesu bị hành hình và nỗi đau đớn của Apdi trên đồi Golgotha của mình, sự sụp đổ của Boston) thì đều hội tụ trong một mô hình có tính nhân quả, và con người hiện đại học được điều gì tự trong những mô hình ấy? Tính chất song trùng của nhân vật dựa trên cơ sở sự tương đồng và ý tưởng của nhà văn khi xây dựng những mô hình đồng dạng để bạn đọc có thể tìm ra những dụ ngôn trong câu chuyện quá khứ, để trả lời cho những vấn đề hiện đại đang được đặt ra. Điều này cũng được nhà nghiên cứu N. Potarov khẳng định: “ thể loại đa dạng, cứ đan quyện vào nhau rất sâu khiến ý tưởng này hòa nhập vào ý 90 tưởng khá, làm sáng chói lên một ý tưởng mới(9)”. Tính chất này gần như bao trùm các yếu tố thi pháp khác như không gian, thời gian, tính chất tương ứng về cốt truyện và chủ đề, trong hầu hết tiểu thuyết Aitmatov, song rõ nhất là ở thi pháp xây dựng nhân vật. 3. KẾT LUẬN Kết cấu cốt truyện độc đáo, hòa quyện trong huyền thoại, tái huyền thoại và đặc biệt là dung chứa trong không thời gian vĩnh cửu, vô thủy vô chung là hành trình tái diễn muôn đời. Bằng folklore, văn học tự “giữ ấm” cho mình và lưu lại lịch sử đã bị đánh mất (lãng quên) của dân tộc, như huyết mạch con người vẫn âm thầm lưu chuyển trải qua bao thế hệ; và cũng chính folklore đã tạo ra dáng nét tuyệt mỹ, kiến trúc đa tầng trong thế giới nghệ thuật Aitmatov. Khởi đi từ những yếu tố, folklore đã trở thành phương thức tư duy, cách “giải hiện thực” độc đáo, đánh dấu sự trưởng thành và chín muồi trong tư tưởng cũng như phong cách sáng tạo của Chinghiz Aitmatov. Nhắc lại những câu chuyện, mà đặc biệt là những sai lầm trong quá khứ, nhà văn đã tìm ra lời giải đáp thông minh cho những vấn đề cấp bách trong đời sống xã hội thời kỳ Xô viết, và chúng ta hôm nay, đã học được điều gì từ Lịch sử? Chú thích: 1 Mai Thị Thơm (2009). Hoa Nghiêm suối nguồn văn học Phật giáo thời Trần. Tp. Hồ Chí Minh: Nxb Phương Đông, tr.185. 2 Mai Thị Thơm (2009). Sđ d, tr.189. 3 Đoàn Trung Còn (1995). Các tông phái đạo Phật. Huế: Nxb Thuận Hóa, tr.57. 4 Quark là một hạt cơ bản sơ cấp, và là một thành phần cơ bản trong cấu tạo của vật chất. Các quark là những hạt cơ bản duy nhất trong mô hình chuẩn của vật lý hạt đều tham gia vào bốn tương tác cơ bản (điện từ, hấp dẫn, mạnh, và yếu). 5 Nhiều tác giả (2004). Từ điển văn học (bộ mới). Hà Nội: Nxb Thế giới, tr.324. 6 Bản ngã song trùng, hoặc những bộ ba nhân vật: Nó được gợi ý (hay gợi hứng) bởi những tấm gương, bởi mặt nước phẳng lặng hay những người sinh đôi, Cái song trùng (the double), như là “mẫu gốc” của nhân vật song trùng, đã tồn tại từ lâu trong các nền văn hóa nghệ thuật nhân loại. Đó là sự thể hiện các con vật, sự vật theo nguyên lí cặp đôi, thể hiện tính lưỡng diện, sự tồn tại song song không thể thiếu nhau của các đối cực Tôn giáo truyền thống thường quan niệm “linh hồn là bản trùng của chủ thể sống, có thể tách rời thể xác khi chủ thể chết, hoặc trong giấc mộng hoặc do một thao tác ma thuật, và có thể thác sinh vào chính thể xác đó hay vào một thể xác khác. Như vậy, hình ảnh con người tự hình dung về mình là một hình ảnh nhân đôi”, Jean Chevalier, Alain Gheerbrant, Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới, Sđd, tr. 826. 7 Trong Kinh thánh, phần Truyện các vua, Apdi là quan tổng quản, đã cứu với 100 tiên tri của Chúa (người Do Thái), thoát khỏi sự sát hại của Gie-sa-ben, [Các vua 18:4]. 8 Ch Aitmatov, Cái giá là cuộc sống, (Vũ Hồng Hà dịch) tuc/p4/c18/n12635/Cai-gia-la-cuoc-song.html 09:55 | 17/09/2013. 9 N. Potarov, Thế giới của con người và con người trong thế giới, in chung tác phẩm Và một ngày dài hơn thế kỷ, tr. V. 91 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Aitmatov C. (Phạm Mạnh Hùng dịch, 1982), Con tàu trắng, Vĩnh biệt Gunxarư!, Con chó khoang chạy ven bờ biển,: Nxb Tác phẩm Mới, Hà Nội. 2. Aitmatov C. (Lê Khánh Trường - Nguyễn Đức Dương dịch, 1986). Và một ngày dài hơn thế kỷ,: Nxb Trẻ, TP. HCM. 3. Aitmatov C. (Vũ Việt dịch, 1989), Đoạn đầu đài, Nxb Tác phẩm Mới, Hà Nội. 4. Fritjof Capra (Nguyễn Tường Bách dịch, 2001), Đạo của vật lý, Nxb Trẻ, TP. HCM. 5. Đoàn Trung Còn (1995), Các tông phái đạo Phật, Nxb Thuận Hóa, Huế. 6. Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội. 7. Mai Thị Thơm (2009), Hoa Nghiêm suối nguồn văn học Phật giáo thời Trần, Nxb Phương Đông, TP.HCM. * Ngày nhận bài: 27/10/2014 Biên tập xong: 01/3/2015 Duyệt đăng: 20/3/2015
File đính kèm:
- folklore_va_mo_hinh_dung_thong_trong_thi_phap_tieu_thuyet_cu.pdf