Đóng góp của tài sản trí tuệ đối với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp

Trên cơ sở những bằng chứng thực tiễn của thế giới về lợi ích của tài sản trí tuệ (TSTT) đối với doanh

nghiệp, bài viết phân tích thực trạng phát triển TSTT và đóng góp của loại tài sản này đối với kết

quả kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn 2011-2015. Kết quả phân tích cho thấy,

TSTT có vai trò to lớn trong việc cải thiện vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Từ đó, tác giả đưa

ra một số gợi ý về chiến lược phát triển TSTT của doanh nghiệp trong thời gian tới.

pdf5 trang | Chuyên mục: Phân Tích Hoạt Động Kinh Doanh | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 298 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Đóng góp của tài sản trí tuệ đối với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
 > 0) 
và tác động này có ý nghĩa thống 
kê ở khoảng tin cậy 95%. Việc ước 
lượng hệ số hồi quy còn cho biết, 
nếu số lượng TSTT tăng thêm 1 
Tên doanh nghiệp
Doanh thu trung 
bình (2014-2016) 
(đơn vị: triệu 
đồng)
Số lượng lao động 
trung bình (2014-
2016) (đơn vị: 
người)
Số lượng 
TSTT 
(2011-
2015)
Kết quả kinh 
doanh: Doanh thu/
lao động (đơn vị: 
triệu đồng/người)
Công ty Cổ phần 
(CP) dược phẩm 
Cần Giờ
266298 65 269 4096,89
Công ty CP dược 
phẩm Tipharco 316209 291 192 1086,63
Công ty CP dược 
phẩm Bến Tre 566317 357 110 1586,32
Công ty CP dược 
Đồng Nai 178787 126 110 1418,94
Công ty CP thực 
phẩm quốc tế 1305349 1282 40 1018,21
Tập đoàn Hoa Sen 4994179 7095 35 703,90
Công ty CP nhựa 
Sài Gòn 74994 110 21 681,76
Công ty CP đồ hộp 
Hạ Long 430020 774 16 555,58
Công ty CP diêm 
Thống Nhất 102429 289 12 354,43
Công ty CP Meinfa 268761 846 7 317,68
Công ty CP du lịch 
dịch vụ Hội An 169882 577 7 294,42
Bảng 1. Số lượng TSTT và kết quả kinh doanh của một số doanh nghiệp được khảo 
sát.
(nguồn: tác giả)
Bảng 2. ước lượng tác động của TSTT tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Tóm tắt mô hình
Mô 
hình R R
2 R2 điều chỉnh Sai số chuẩn của ước lượng
(1) 0,883 0,780 0,755 536,70580
ANOVA
Mô hình Tổng bình phương df
Trung bình bình 
phương F Sig.
(1)
Hồi quy 9179021,487 1 9179021,487 31,866 ,000b
Phần dư 2592477,994 9 288053,110
Tổng 11771499,482 10
Các hệ số hồi quy
Mô hình
B
Hệ số chưa chuẩn hóa
Hệ số 
chuẩn 
hóa t Sig.
Sai số chuẩn Beta
(1)
(Constant) 284,230 217,116 1,309 0,223
IA 10,975 1,944 0,883 5,645 0,000
(nguồn: tác giả)
23
Soá 7 naêm 2018
Diễn đàn khoa học - công nghệ
đơn vị thì có khả năng làm cho 
kết quả kinh doanh của doanh 
nghiệp tăng hơn 10,97 lần. Như 
vậy, kết quả phân tích phù hợp 
với thực tiễn và những nghiên cứu 
trước đây về mối quan hệ thuận 
chiều giữa TSTT và kết quả kinh 
doanh của doanh nghiệp, trong 
bối cảnh ở Việt Nam, TSTT có 
vai trò quan trọng đối với hoạt 
động kinh doanh của doanh 
nghiệp. Mối tương quan giữa số 
lượng TSTT và doanh thu/người 
lao động của doanh nghiệp cho 
biết những doanh nghiệp có càng 
nhiều TSTT thì càng có cơ hội cải 
thiện vị thế cạnh tranh của mình 
trên thị trường.
Một số gợi ý về chiến lược phát triển 
TSTT của doanh nghiệp trong giai 
đoạn tới
Sau 12 năm thực hiện Chiến 
lược phát triển hoạt động sở hữu 
công nghiệp tại Việt Nam (1998-
2010) và sau 10 năm (2007-
2017) tiếp tục hội nhập quốc tế 
trong khuôn khổ Hiệp định TRIPS 
và các điều ước quốc tế về SHTT 
mà Việt Nam ký kết hoặc tham 
gia, trong giai đoạn tới nền kinh 
tế Việt Nam được nhận định là 
sẽ chuyển dịch mạnh mẽ về cơ 
cấu và chuyển đổi mô hình tăng 
trưởng, coi năng suất, chất lượng, 
hiệu quả và sức cạnh tranh là ưu 
tiên hàng đầu, chú trọng phát 
triển theo chiều sâu và phát triển 
kinh tế tri thức. Trong bối cảnh đó, 
hoạt động phát triển TSTT ngày 
càng thu hút sự tham gia của đông 
đảo các cá nhân, tổ chức, doanh 
nghiệp; vai trò của TSTT đối với 
kinh tế ngày càng trở nên rõ rệt 
và nhận được nhiều sự quan tâm 
của xã hội. Tuy nhiên theo phân 
tích ban đầu cho thấy, trong thời 
gian qua, mặc dù các TSTT của 
doanh nghiệp có đóng góp tích 
cực đối với kết quả kinh doanh, 
nhưng nhìn chung chưa thực sự 
đáp ứng được đòi hỏi ngày càng 
cao của sự phát triển: Số lượng 
các TSTT là tri thức công nghệ 
của Việt Nam còn nhỏ bé, giá trị 
không cao, hầu như chưa có sản 
phẩm trí tuệ nào có giá trị cạnh 
tranh trên phạm vi toàn cầu. 
Một trong những nguyên nhân 
quan trọng của thực trạng này 
là do SHTT vẫn còn là một lĩnh 
vực mới mẻ, trình độ khoa học 
và công nghệ và quản trị TSTT 
của doanh nghiệp Việt Nam chưa 
cao, nhất là trong bối cảnh cuộc 
cách mạng công nghiệp 4.0 diễn 
ra mạnh mẽ, cạnh tranh kinh tế 
giữa các quốc gia - doanh nghiệp 
ngày càng gay gắt và việc đổi mới 
sáng tạo trở thành yếu tố quyết 
định ưu thế trong cạnh tranh. 
Vì vậy, để phát huy hơn nữa 
vai trò của TSTT đối với kết quả 
kinh doanh của doanh nghiệp nói 
riêng và tăng trưởng kinh tế nói 
chung, trước hết cần khẳng định 
quan điểm phát triển TSTT thực 
sự có chất lượng và giá trị kinh 
tế là một mục tiêu hàng đầu. Nhà 
nước, một mặt cần thực hiện vai 
trò kiến tạo về môi trường, thông 
qua việc hoàn thiện thể chế bảo 
hộ quyền SHTT, nâng cao chất 
lượng thực thi pháp luật và quản 
lý nhà nước về SHTT một cách 
thỏa đáng, minh bạch và công 
bằng, mặt khác cần định hướng 
doanh nghiệp chú trọng sự kết 
hợp giữa việc sử dụng, khai thác 
thông tin SHTT của thế giới với 
việc tạo ra, khai thác và phát triển 
các loại TSTT nhằm nâng cao 
chất lượng các sản phẩm sáng 
tạo, đặc biệt là các SC của Việt 
Nam; chú trọng việc quản trị các 
TSTT, đặc biệt là các NH trong 
kinh doanh.
Để đạt mục tiêu nêu trên, về 
mặt chiến lược, đối với hệ thống 
pháp luật và chính sách về SHTT, 
24 Soá 7 naêm 2018
Diễn đàn Khoa học - Công nghệ
Nhà nước cần chú ý việc khuyến 
khích, hỗ trợ hoạt động sáng 
tạo, khai thác, thương mại hóa 
sản phẩm, quy trình công nghệ; 
hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và 
nhỏ, doanh nghiệp khởi nghiệp 
thực hiện việc đăng ký và bảo hộ 
các TSTT, hỗ trợ hoạt động khởi 
nghiệp trên nền tảng TSTT. Đối 
với hệ thống bổ trợ, cần chú trọng 
việc hiện đại hóa các cơ sở dữ 
liệu SHTT theo hướng đầy đủ, chi 
tiết, được cập nhật kịp thời kèm 
theo các công cụ nhận dạng, 
phân loại, sắp xếp khoa học, các 
công cụ tra cứu thân thiện bảo 
đảm đáp ứng một cách thuận 
tiện, nhanh chóng với độ tin cậy 
cao mọi nhu cầu thông tin phục 
vụ các hoạt động nghiên cứu - 
phát triển, nghiên cứu thị trường, 
đăng ký, thương mại hóa TSTT 
của doanh nghiệp. Đồng thời, 
cần tiếp tục mở rộng và cải tiến 
hoạt động tuyên truyền, phổ biến 
kiến thức về SHTT và TSTT dưới 
nhiều hình thức thiết thực nhằm 
nâng cao nhận thức và hiểu biết 
của doanh nghiệp về tầm quan 
trọng của TSTT đối với hoạt động 
kinh doanh, từng bước xây dựng 
tập quán ứng xử văn minh trong 
các quan hệ về SHTT. Đặc biệt, 
Nhà nước cần tổ chức một cách 
hệ thống việc huấn luyện kỹ năng 
sử dụng bài bản, có hiệu quả 
các công cụ quản trị TSTT trong 
quá trình tạo dựng, xác lập độc 
quyền, thương mại hóa, bảo vệ 
TSTT trong môi trường sản xuất, 
kinh doanh của doanh nghiệp ?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] K. Rockett (2010), “Property 
rights and invention”, Handbook of the 
Economics of Innovation, Elsevier. 
[2] C. Helmers, M. Rogers (2011), 
“Does patenting help high-tech start-
ups?”, Research Policy, 40, pp.1016-
1027.
[3] A. Kransnikov, et al. (2009), 
“Evaluating the Financial Impact 
of Branding Using Trademarks: A 
Framework and Empirical Evidence”, 
Journal of Marketing, 73, pp.154-166.
[4] G. Licht, K. Zoz (1998), 
Patents and R&D: An Econometric 
Investigation using Applications for 
German, European and US Patents 
by German Companies, Annales 
d´Économie et Statistique. 
[5] B.H. Hall, R.H. Ziedonis (2001), 
“The Patent Paradox Revisited: An 
Empirical Study of Patenting in the U.S. 
Semiconductor Industry, 1979-1995”, 
The RAND Journal of Economics, 
32(1), pp.101-128. 
[6] J. Lerner (2009), “The Empirical 
Impact of Intellectual Property Rights 
on Innovation: Puzzles and Clues”, 
The American Economic Review, 
49(2), pp.343.348.
[7] Y. Kim, et al. (2010), “Appropriate 
intellectual property protection and 
economic growth in countries at 
different levels of development”, 
Research Policy, 41, pp.358-375.
[8] N. Bloom, J. Van Reenen 
(2002), “Patents, Real Options and 
Firm Performance”, The Economic 
Journal, 11, pp.97-114.
[9] Y. Cheng, et al. (2010), 
“Profitability decided by patent 
quality? An empirical study of the 
U.S. semiconductor industry”, 
Scientometrics, 82, pp.175-183.
[10] U. Lichtenthaler (2009), “The 
role of corporate technology strategy 
and patent portfolios in low-, medium-, 
and high-technology firms”, Research 
Policy, 38(3), pp.559-569.
[11] F. Munari, S. Santoni (2010), 
“Exploiting complementarities in 
IPR mechanisms: The joint use of 
patents, trademarks and designs 
by SMEs”, Paper Presented at the 
Strategic Management Society Annual 
Conference, Rome, Italia.
[12] C. Helmers, M. Rogers (2010), 
“Innovation and the survival of new 
firms in the UK”, Review of Industrial 
Organization, 36(3), pp.227-248. 
[13] H. Ernst, et al. (2016), “How to 
create commercial value from patents: 
The role of patent management”, 
Research Policy, 26, pp.677-690. 
[14] R. Verganti (2008), “Design, 
Meanings, and Radical Innovation: a 
meta-model and a research agenda”, 
Journal of Product Innovation 
Management, 25, pp.436-456.
[15] E. Bascavusoglu Moreau, B. 
Tether (2011), “Design Economics 
Chapter Two: Registered Designs & 
Business Performance - Exploring 
the Links”, Intellectual Property Office, 
2011(6), pp.1-36.
[16] J. Thomä, K. Bizer (2013), “To 
protect or not to protect? Modes of 
appropriability in the small enterprise 
sector”, Research Policy, 42(1), pp.35-
49. 
[17] P. Sandner, J. Block (2011), 
“The market value of R&D, patents, 
and trademarks”, Research Policy, 
40(7), pp.969-985. 
[18] J. Block, et al. (2014), 
“Trademark families: characteristics 
and market values”, Journal of Brand 
Management, 21(2), pp.150-170. 
[19] C. Greenhalgh, M. Rogers 
(2012), “Trade Marks and Performance 
in Services and Manufacturing 
Firms: Evidence of Schumpeterian 
Competition through Innovation”, The 
Australian Economic Review, 45(1), 
pp.50-76.
[20] R. Srinivasan, et al. (2008), 
“Survival of high tech firms: the 
effects of diversity of product-market 
portfolios, patents, and trademarks”, 
International Journal of Research in 
Marketing, 25(2), pp.119-128.
[21] Office for Harmonization 
in the Internal Market (2015), 
Intellectual Property Rights and Firms 
Performance in Europe: An Economic 
Analysis, Alicante.

File đính kèm:

  • pdfdong_gop_cua_tai_san_tri_tue_doi_voi_ket_qua_kinh_doanh_cua.pdf
Tài liệu liên quan