Đề tài tình ái trong thơ Nguyễn Công Trứ
Tóm tắt: Tình ái trong trước thuật, văn học Trung Hoa và văn chương Việt Nam thời trung đại là đề tài
cấm kị hoặc được nói đến một cách thận trọng. Thơ văn Nguyễn Công Trứ lại đề cập nhiều đến đề tài này. Nhà thơ đã định nghĩa về tình ái, chỉ ra các biểu hiện của tình ái theo cảm nhận của riêng mình. Với đề tài này, tác giả đã thể hiện cái tôi cá nhân, cái nhìn hiện đại trong sáng tác và làm mới đề tài thơ ca trung đại.
vấn lang niên kỷ Ngũ thập niên tiền nhị thập tam Tình đã chung lứa cũng phải vam (ăn khớp) (Tuổi già cưới vợ hầu) Bài thơ được viết trong hoàn cảnh đã ở tuổi bảy mươi ba, còn say tình ái, còn cưới nàng hầu vợ lẽ. Trong đêm động phòng hoa chúc, một người mái tóc đã như tuyết phủ, một 85 người “đào tơ còn mảnh mảnh” vẫn say nồng “tình chung”. Trong trướng gấm, nàng mới hỏi chàng bao tuổi, chàng trả lời rằng: Năm mươi năm trước ta hai mươi ba. Vần thơ ngộ nghĩnh hóm hỉnh. Quan niệm về tình ái không tuổi tác của ông tiếp tục được Xuân Diệu kế thừa. Hoàng tử thi ca tình yêu viết: Tôi đã yêu từ khi chưa có tuổi Tôi đã yêu khi đã hết tuổi rồi. Kẻ đa tình không cần đủ thịt da Khi chết rồi thì tôi sẽ yêu ma. (Đa tình) 2.2.2.2. Tình ái là luôn nhớ nhung, có sức hút mãnh liệt Tương tư là nỗi nhớ nhau của tình yêu đôi lứa. Nhưng trong cuộc đời, tương tư thường là trạng thái nỗi nhớ đơn phương. Người này nhớ mà đôi khi nghĩ người kia vô tình lắm, chẳng hề biết người kia đang khổ sở vì yêu. Nhớ là biểu hiện của yêu, một tâm hồn đang nhớ là một trái tim đang yêu. Nguyễn Công Trứ cũng thế. Thêm vào đó, như ông đã nói ở trên, càng tài tử càng nhiều tình ái. Cảm xúc đó không trừ một ai và nó có sức mạnh ghê gớm, tuy không hình không ảnh, nó biến khoảng cách dù là ngắn trở nên dài đằng đẵng, “nhất nhật bất kiến như tam thu hề”: Đã gọi người thiên cổ dậy Lại đưa hồn lúc ngũ canh đi. (Vịnh chữ tình) Trạng thái con người trong tình ái là luôn nhớ người yêu, đứng ngồi không yên, dân gian từng nói: Nhớ ai bổi hổi bồi hồi Như đứng đống lửa như ngồi đống than. Nguyễn Công Trứ là kẻ tài tử nên ông cũng là nhân tình giàu dự cảm, ông bị những cảm xúc nhớ thương giày vò khổ sở, trở thành nạn nhân của chính mình, và sau những nhớ nhung đó là những mâu thuẫn đáng yêu, có vẻ phi lí: Tao ở nhà tao tao nhớ mi Nhớ mi nên phải bước chân đi Không đi mi nói răng không đến Đến thì mi nói đến làm chi (Bỡn nhân tình) Puskin (1799 – 1837), nhà thơ, nhà văn Nga có tứ thơ tương tự: Em bảo: "Anh đi đi" Sao anh không đứng lại ? Em bảo: "Anh đừng đợi" Sao anh vội về ngay ? (Em bảo anh đi đi) 86 Trong tình ái, hai người yêu nhau sẽ chung niềm vui, nỗi buồn, là không quy kết nhưng không thể không giận dỗi, bực dọc. Khi yêu, Tổng đốc Đông không thể dùng quyền lực mà sai khiến, vì vậy cũng bất đắc chí: Làm chi tao đã làm chi được Làm được thì tao đã làm đi. (Bỡn nhân tình) Bên cạnh sự giận dỗi, tương tư cũng là cung bậc cảm xúc phổ biến trong thơ tình Nguyễn Công Trứ. Tương tư ám ảnh tâm can, nó không kích thước, hình ảnh. Tương tư không đơn thuần xuất hiện khi hai người xa cách: Tương tư không biết cái làm sao? Muốn vẽ mà chơi vẽ được nào! Khi đứng, khi ngồi, khi nói chuyện, Lúc say, lúc tỉnh, lúc chiêm bao. (Tương tư) Trong tính ái, hai người yêu nhau sẽ muốn ở bên nhau mãi mãi. Tất cả sự nhung nhớ ấy cuối cùng là sự dồn nén của niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi. Kẻ về người ở Bồi hồi thay lúc phân kì Khéo quấy người hai chữ tình si Lửa li biệt bừng bừng không lúc nguội. (Cảnh biệt li) Sau này, chốn quan trường không còn là nơi gắn bó, con người Nguyễn Công Trứ trở về tôn thờ triết lí cầu nhàn, ông nhận thấy tình ái có sức mạnh mãnh liệt, lắm khi làm cho con người quên đường về chốn ngựa xe, là giải pháp thoát vòng danh lợi, nó chiến thắng danh lợi: Riêng cái thú giang sơn phong nguyệt Mặc xa mã thị thành không dám biết (Thoát vòng danh lợi) Qua chiêm nghiệm cá nhân, ông cho biết, tình ái có khả năng giàng buộc hơn danh lợi, con người có thể “thoát vòng danh lợi” nhưng không thể thoát khỏi sự trói buộc của tình ái: Đa tình là dở, Đã mắc vào khó gỡ cho ra, Khéo quấy người một cái tinh ma Trói buộc kẻ hào hoa biết mấy. (Vịnh chữ tình) Ông cũng nghĩ, khi đã cùng nhau trong tình ái thì không nên phụ bạc, phải có thủy có chung, không nên đứng núi này trông núi nọ và ghét cay ghét đắng thói ong bướm: Đứng núi này trông núi nọ cao Nhân tình ơ hỡ biết làm sao 87 Nghĩ mình chưa phải tình Kim Trọng Mà đó đà mang nợ Thúy Kiều Non nước nước non ngao ngán nỗi Cỏ hoa hoa cỏ ngẩn ngơ chiều Vườn hoa kia để ai rong rả Ong bướm xông pha dáng cũng nhiều. (Trách tình nhân) Tình ái là sự quyến luyến chân thành, dù tan vỡ, nhưng nó để lại những dư chấn trong lòng người, không phải đơn thuần là chuyện cho và nhận. Sau này, có lần ông phải bỏ một cô vợ lẽ, lúc chia tay ông viết: Mười hai bến nước một con thuyền Tình tự xa xôi đố vẽ nên Tự biệt nhiều lời so vắn giấy Tương tư nặng gánh chứa đầy thuyền Tình ấy trăng kia như biết với Chia làm hai nửa giọt hai bên. (Bỏ vợ lẽ cảm tác) Như vậy, thơ ca Nguyễn Công Trứ đề cập nhiều đến đề tài tình ái. Tình ái theo ông là thứ cảm xúc kì lạ, có sức hút ghê gớm, có sức mạnh hơn danh lợi, nó thường trực và làm con người ta đau đáu nhớ nhung. Theo cách ông cởi mở trải bày, tình ái đã làm nên thế quân bình trong con người kẻ sĩ. 2. 2. 3. Ý nghĩa Xã hội cũ đề cao cái cộng đồng và cho rằng tình ái là chuyện trái đạo lí, không phù hợp với lời răn dạy của Nho gia. Tác gia văn học trung đại trước Nguyễn Công Trứ rất rụt rè về đề tài này. Khi đề cập đến chủ đề tình ái, Nguyễn Công Trứ đã đưa đến cho đời sau một đề tài mới mẻ, để giải cứu sự giới hạn của đề tài có tính chất cung đình, sơn son thếp vàng của văn chương trung đại, đồng thời phát biểu quan niệm nghệ thuật về con người, đề cao con người tự nhiên, con người bản ngã. Tình ái cũng vượt qua sự nhận thức những giới hạn cay nghiệt về tuổi tác mà con người phải chịu đựng. Nó là thứ tình cảm đặc biệt và khiến con người chế ngự được sự “hạn lấy tuổi” của quy luật tự nhiên. Con người có quyền hưởng thụ và thể hiện tình cảm này bằng cảm quan và hành động mãnh liệt. Vì vậy, khi sống và yêu, ông biết mình không phải là số nhiều ở chốn dương gian, từng so sánh với Trần Tu đời Lê: Xưa nay mấy kẻ đa tình Lão Trần là một với mình là hai! (Tuổi già cưới vợ hầu) Sống thành thực trong tình ái, Nguyễn Công Trứ đã bước đầu thể hiện cái tôi cá nhân. Sự nhận thức về mình trong thời đại bất chấp sự khôi phục trở lại của Nho giáo ở đầu thế kỉ XIX khiến cái tôi trong văn học thế kỉ XX không đơn giản là thành quả của quá trình tiếp 88 xúc văn hóa, văn học phương Tây. Thân phận cá nhân chỉ có thể phát triển đầy đủ trong lòng xã hội khi chính con người có quyền phân tích nội tâm của mình, có khả năng hành động như mình mong muốn. Con người không phải là con rối của thời đại mà có đời sống riêng tư, có thú vui được tự trò chuyện về mình. Nguyễn Công Trứ là người đặt nền móng cho quan niệm con người hoàn chỉnh, lên tiếng đả phá con người tự cao quý tộc, chỉ có công danh suông và tìm ra giải pháp chống lại sự hữu hạn nhàm chán của đời người. Bài thơ Chơi xuân kẻo hết xuân đi là một tuyên ngôn như thế: Dẫu ba vạn sáu ngàn ngày đà mấy chốc Lại mang lấy lợi danh vinh nhục Cuộc đời kia lắm lúc bi hoan E đến khi trăng rữa hoa tàn Tề suy vật lý tu hành lạc, An dụng phù danh bạn thử thân (Suy cho kĩ thì đời cũng nên vui chơi Sao nỡ bỏ công danh bó buộc mình) Cuộc hành lạc bao nhiêu là lãi đấy, Nếu không chơi thiệt ấy ai bù. Cuộc hành lạc theo cách nghĩ của ông là “cầm, kì, thi, tửu”, ngoài rượu như Lưu Linh, cờ như Đế Thích, thi như Đỗ, Lí thì không thể thiếu hát cô đầu, nơi có cái ái tình nghiêng ngả, con người được thoát li thực tại: Không tài tình quang cảnh có ra chi Có yến yến hương hường mới thú! Khi đắc ý mắt đi mày lại Đủ thiên thiên thập thập thêm nồng. (Tài tình) 3. Kết luận Từ những kiến giải trên, chúng tôi thấy rằng, Nguyễn Công Trứ có công lao đặc biệt trong việc đưa đề tài tính ái vào văn chương. Lần đầu tiên trong văn học trung đại có một nhà thơ nói về đề tài tình ái nhiều đến thế. Qua những vần thơ tình ái, ông chỉ ra sự vênh lệch trong quan niệm giáo lí sách vở về con người chuẩn mực đương thời với con người đời thường. Qua đó ông đề xuất quan niệm sống hiện đại, đồng thời trải nghiệm quan niệm ấy. Con người trong mắt ông chỉ chuẩn mực khi vừa cống hiến hết mình nhưng phải biết hưởng thụ. Sự hưởng thụ không cần che đậy, bưng bít. Trong hưởng thụ có cái tình ái nghiêng ngả nhiều cảm xúc, nó danh chính ngôn thuận, không phải cái xấu xa nên có quyền phơi bày, không che giấu. Con người được trọn vẹn và được là mình khi được đặt trong đời sống cá nhân, vừa có lí trí, vừa có tình cảm. Đây cũng là lí do nhiều nhà nghiên cứu xếp ông vào nhóm nhà thơ tài tử Việt Nam. 89 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Dương Thu Ái - Nguyễn Kim Hanh (sưu tầm và biên dịch), Khổng Tử với luận ngữ, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội, 2011. [2]. Trương Chính (tuyển soạn và giới thiệu), Thơ văn Nguyễn Công Trứ, Nxb Văn học, 1983. [3]. Trần Xuân Đề, Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, Nxb Giáo dục, 1998. [4]. Lữ Huy Nguyên (tuyển soạn, giới thiệu), Hồ Xuân Hương - thơ và đời, Nxb Văn học, 2000. [5]. Nguyễn Đăng Na (biên soạn và giới thiệu), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, Tập 1, Nxb Giáo dục, 1999. [6]. Nguyễn Đăng Mạnh, Lịch sử văn học việt Nam 1930- 1945, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000. [7]. Hoàng Phê (chủ biên và các tác giả khác), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển Ngôn ngữ xuất bản, Hà Nội – Đà Nẵng, 1998. [8]. Trần Nho Thìn (tuyển soạn và giới thiệu), Nguyễn Công Trứ - Về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, 2003. THEME OF LOVE IN NGUYEN CONG TRU’S POEMS Ngo Thi Phuong Faculty of Philology, Tay Bac University Abstract: Love in oriental doctrines, Chinese literature, and Vietnamese medieval literature is a taboo subject or is mentioned with caution. Nevertheles, Nguyen Cong Tru’s poetry mentions this topic quite often. He defines love, shows the expression of love according to his own feeling. With this topic, the author made the personal ego, the modern and refreshing viewpoints in composing poetry in medieval time. Keywords: Subject, love, Nguyen Cong Tru.
File đính kèm:
- de_tai_tinh_ai_trong_tho_nguyen_cong_tru.pdf