Đánh giá nguồn vốn tài nguyên thiên nhiên để phát triển sinh kế của người dân tái định cư xã Chiềng Ơn, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La

Tóm tắt: Tài nguyên thiên nhiên (TNTN) là vốn tự nhiên để phát triển sinh kế. Có 5 nguồn vốn để đánh giá

sinh kế như vốn con người, vốn tự nhiên, vốn vật chất, vốn tài chính, vốn xã hội. Một trong những nguồn vốn để phát triển sinh kế ở xã Chiềng Ơn, huyện Quỳnh Nhai rất quan trọng là TNTN. TNTN có nhiều thuận lợi, nhưng cũng có nhiều khó khăn. Địa hình chủ yếu là đồi núi, độ cao trung bình từ 400 – 500m, độ chia cắt sâu lớn, thuận lợi để canh tác, nhưng khó khăn trong việc canh tác trên đất dốc. Đất có diện tích khá lớn, nhìn chung khá màu mỡ thuận lợi để phát triển nông nghiệp. Khí hậu mang tính chất gió mùa điển hình của vùng Tây Bắc, phân thành hai mùa, khá thuận lợi để phát triển nông nghiệp. Tuy nhiên, mùa khô kéo dài, thiếu nước nghiêm trọng trong sản xuất. Nguồn nước thuận lợi để phát triển nuôi trồng thủy sản và phát triển du lịch lòng hồ. Xuất phát từ thực tiễn nguồn TNTN như trên, đòi hỏi cần phải đánh giá đầy đủ để phát triển sinh kế bền vững hơn

pdf9 trang | Chuyên mục: Xã Hội Học | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 376 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Đánh giá nguồn vốn tài nguyên thiên nhiên để phát triển sinh kế của người dân tái định cư xã Chiềng Ơn, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
76 
khu vực này chủ yếu là đồng bào dân tộc do vậy tập quán canh tác sản xuất chưa được hiện đại 
hóa, cơ bản là độc canh và quảng canh, kĩ thuật tiên tiến chưa được áp dụng, các loại giống mới 
chưa được nghiên cứu để đưa vào gieo trồng. Do vậy người dân vẫn chưa thể phát huy được tiềm 
năng đất đai hiện có mà vẫn còn phụ thuộc vào kinh nghiệm truyền thống, một số hộ gắn liền 
hoạt động sản xuất với vùng đất bán ngập và thả vó bè. 
* Khí hậu 
 Khí hậu của Chiềng Ơn mang tính chất khí hậu gió mùa nhiệt đới điển hình của khí hậu 
vùng Tây Bắc với chế độ nóng ẩm, mưa nhiều, phân hóa thành 2 mùa: mùa mưa và mùa khô rõ 
rệt. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 – tháng 9, chiếm trên 75% lượng mưa trong năm; mùa khô kéo 
dài từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. 
 Nền nhiệt trung bình năm là 21,40C, trung bình cao nhất là 270C, thấp nhất là 160C. Tổng 
nhiệt độ hoạt động khoảng 89420C. Về cơ bản, khí hậu của vùng tương đối thích hợp cho các 
loại cây trồng nhiệt đới phát triển. 
 Chế độ mưa: tổng lượng mưa trung bình 1318,6mm/năm. Lượng mưa tương đối lớn, tập 
trung chủ yếu vào mùa hè mang lại lợi ích quan trọng bởi đây được coi là mùa phát triển các loài 
cây trồng và vật nuôi thuận lợi nhất trong năm. Người dân cần tận dụng triệt để những thuận lợi 
về tài nguyên nước trong mùa mưa để phát triển nông nghiệp. Không chỉ phát triển kinh tế, nước 
mưa đáp ứng một phần lớn nhu cầu nước sinh hoạt cho người dân thông qua việc xây bể dự trữ 
nước mưa trong các hộ gia đình để đảm bảo đủ lượng nước sinh hoạt trong mùa khô. 
Có thể nói, hạn chế lớn nhất về khí hậu của Chiềng Ơn đó là mùa khô kéo dài từ tháng 10 
đến tháng 4 năm sau, trong mùa khô lượng mưa lại quá thấp, trung bình khoảng 403mm cho cả 7 
tháng (chỉ gần 30% tổng lượng mưa cả năm). Trong mùa khô lượng nước bốc hơi lớn nên tình 
trạng khô hạn rất nghiêm trọng. Các tháng cuối mùa khô là các tháng khó khăn nhất cho cây 
trồng vì lượng dự trữ ẩm trong đất bị cạn kiệt do bốc hơi, vào mùa khô nguy cơ xảy ra cháy rừng 
cũng thường xuyên đe dọa. 
Vào mùa mưa lượng mưa lớn tạo thành các dòng chảy mạnh trên các sườn dốc làm tăng 
khả năng xói mòn đất, nguy cơ đất bị thoái hóa nhanh. Hơn nữa, trong vùng thường xuất hiện 
những hiện tượng thời tiết cực đoan như: gió Lào, mưa đá, sương mù, sương muối, đòi hỏi cần 
có định hướng bố trí cơ cấu cây trồng hợp lí, hạn chế tác hại đến phát triển và năng suất cây 
trồng, vật nuôi. 
 Với đặc điểm khí hậu như trên đòi hỏi khi bố trí cây trồng cần phát huy các ưu thế về chế 
độ nhiệt ẩm, nhằm nâng cao năng suất cây trồng. Chế độ khí hậu thích hợp cho các cây ngắn 
ngày như ngô, đậu tương, sắn, lạc, cây lâu năm như xoài, nhãn, các loại vật nuôi chính là 
trâu, bò, dê, lợn, gà, nuôi trồng thủy sản đặc biệt là loài cá tầm và rô phi lai, 
 * Tài nguyên nước 
 Trong những năm gần đây, việc tận dụng diện tích nước mặt lòng hồ để nuôi trồng thủy sản 
77 
là một trong những hướng đi mới đầy tiềm năng góp phần cải thiện sinh kế của đồng bào xã 
Chiềng Ơn. Đặc biệt ở một số bản thuộc xã Chiềng Ơn có diện tích lòng hồ lớn nhiều cá nhân có ý 
tưởng thành lập các hợp tác xã thủy sản nhằm khai thác tốt hơn lợi thế mặt nước sẵn có, bù lại 
phần diện tích đất canh tác hạn chế về chất lượng. Hiện nay, tại khu vực lòng hồ thuộc địa phận 
của xã Chiềng Ơn các mô hình nuôi cá lồng với các loại cá chủ yếu như cá rô phi lai, cá trôi, cá 
chép, cá trắm khá phổ biến, bước đầu đã đem lại nguồn thu cho người dân. Vì thế, trong thời 
gian tới ngành nuôi trồng và đánh bắt thủy sản đã và sẽ trở thành một ngành quan trọng của xã bởi 
giá trị kinh tế mà nó mang lại. 
 Ngành du lịch được dự báo sẽ trở thành ngành phát triển trong tương lai bởi vẻ đẹp thiên 
nhiên kết hợp giữa vùng núi non hoang sơ và vùng lòng hồ. Đây cũng sẽ một nguồn tài nguyên 
du lịch vô cùng quý giá nếu như con người biết sử dụng và khai thác một cách hợp lí. Theo như 
điều tra 70 hộ dân thuộc cả vùng bán ngập và vùng lân cận th́ hơn 60% hộ dân cho rằng ngành 
du lịch và thủy sản sẽ là những ngành mà họ cần học tập để tận dụng tốt nguồn tài nguyên sẵn có 
của địa phương. 
 Mặc dù là khu vực có sông Đà chảy qua nhưng do vùng sản xuất và sinh sống của dân cư 
ở độ cao cao hơn so với mặt nước nên sông Đà chưa có nhiều giá trị trong việc phục vụ sản xuất 
và đời sống mà nguồn nước chủ yếu dựa vào nguồn nước khe suối chảy theo mùa là chủ yếu. 
Hơn nữa theo điều tra, toàn xã nằm trên vùng có nguồn nước ngầm kém phong phú, chỉ có thể 
lấy một lượng nhỏ nước ngầm trong vỏ phong hóa hoặc đối pha. Do đó nguồn nước cung cấp 
cho người dân cũng bị hạn chế. 
* Tài nguyên rừng 
 Hiện nay 100% diện tích rừng của xã Chiềng Ơn được quy hoạch làm rừng phòng hộ và 
được giám sát trực tiếp từ các thôn, bản. Tuy nhiên, người dân vẫn có thể tận thu những nguồn 
lợi cơ bản của tài nguyên rừng mang lại như củi đốt, dược liệu, là những sản phẩm từ rừng để 
phục vụ sinh kế cho cư dân. Sự thay đổi về điều kiện sinh thái của khu vực lòng hồ chắc chắn sẽ 
hình thành sự phong phú về tài nguyên sinh vật rừng cho toàn khu vực. Dân cư sẽ khai thác tài 
nguyên rừng chủ yếu dưới góc độ phục vụ du lịch trong tương lai. 
 Trên cơ sở tiến hành tổng hợp tài liệu, khảo sát thực tế và đánh giá các mặt thuận lợi và khó 
khăn của vốn tự nhiên đối với hoạt động của dân cư, nhóm tác giả nhận thấy: 
 i) Nguồn vốn tự nhiên có ý nghĩa tiền đề đối với mọi hoạt động sinh kế của người dân xã 
Chiềng Ơn, đặc biệt là hoạt động trồng trọt, đánh bắt thủy sản. Bằng kinh nghiệm thực tế, giá trị 
truyền thống lâu đời người dân nơi đây vẫn gắn bó với đất, với nước, với rừng. 
 ii) Nông nghiệp vẫn là hoạt động sinh kế quan trọng nhất, tạo nguồn thu chính nuôi sống 
các HGĐ. Hiện nay, do diện tích đất canh tác bị thu hẹp, bước đầu đã tạo ra sự chuyển đổi trong 
cơ cấu kinh tế HGĐ; hoạt động đánh bắt, nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi ngày càng đem lại 
nguồn thu ổn định hơn cho mỗi gia đình (theo kết quả điều tra của nhóm tác giả, hoạt động đánh 
bắt thủy sản đã tạo nguồn thu chính cho 16/70 HGĐ, chiếm 22,9% tổng số hộ được hỏi). 
78 
 iii) Khó khăn chủ yếu của nhiều HGĐ là thiếu đất, thiếu vốn sản xuất, thiếu giống, khoa 
học kĩ thuật, thiếu cơ sở thức ăn, phân bón Do đó, dưới sự lãnh chỉ đạo của cán bộ cấp trên xã 
và người dân cần tiến hành cải tạo, mở rộng, khai hoang các vùng đất có khả năng canh tác, đồng 
thời sử dụng tối đa, có hiệu quả diện tích vùng bán ngập. Hướng dẫn người dân kĩ thuật trồng, 
chăm sóc cây, con; tổ chức nhiều lớp tập huấn; hỗ trợ vốn cho người dân có hoàn cảnh khó khăn. 
Tiếp tục quản lí tài nguyên rừng theo hình thức cộng đồng nhằm ổn định dòng chảy, góp phần 
hạn chế hiện tượng sạt lở đất ven sông, suối như hiện nay. 
3. Kết luận 
Có thể nói, với sự thay đổi lớn về điều kiện sống của người dân TĐC xã Chiềng Ơn thì 
TNTN là một trong những nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội. Trên cơ sở khung 
sinh kế bền vững của DFID, nhóm tác giả đã đánh giá những thuận lợi và khó khăn của các nhân 
tố thuộc nguồn vốn tự nhiên. Trong đó có những nhân tố có ý nghĩa quan trọng như tài nguyên 
đất, tài nguyên nước, đã được người dân xã Chiềng Ơn tận dụng và cải thiện cuộc sống hiện 
tại. Tuy nhiên, do nhiều nhân tố tác động như chính sách nhà nước, phong tục văn hóa và tập 
quán canh tác vẫn chưa được thay đổi, cải thiện nhanh chóng, phù hợp nên chưa thể phát huy 
hiệu quả tối ưu những nguồn vốn tự nhiên này. Trong thời gian tới, cùng với sự giúp sức của các 
cơ quan trong tỉnh cho người dân TĐC thủy điện Sơn La nói chung và người dân TĐC xã 
Chiềng Ơn nói riêng sẽ sử dụng bền vững những nguồn vốn tự nhiên, để người dân TĐC có thể 
phát triển kinh tế và nâng cao năng lực sản xuất và phù hợp hoàn cảnh của mình. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Chambers, R. and G. R. Conway, 1992, Sustainable rural livelihoods: practical concepts for 
the 21st century IDS, IDS Discussion Paper No 296 
[2]. Ban chỉ đạo di dân, TĐC thủy điện Sơn La, 12/2006, Nhà máy thủy điện Sơn La và công 
cuộc di dân TĐC 
[3]. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2013, Dự án cải thiện nông nghiệp có tưới: Khung 
chính sách TĐC (RPF), Hà Nội 
[4]. Bộ Phát triển quốc tế Vương quốc Anh (DFID UK), Bộ Kế hoạch và đầu tư, Chương trình 
đối tác hỗ trợ các xã nghèo (PAC), 2003, Báo cáo Hội thảo đào tạo SKBV Việt Nam: Phần IV 
Sử dụng phương pháp tiếp cận SKBV và khung phân tích 
[5]. Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La, Ban Quản lí di dân TĐC thủy điện Sơn La – huyện Quỳnh 
Nhai, 2007, Báo cáo thuyết minh Quy hoạch chi tiết phát triển kinh tế - xã hội gắn với bố trí 
TĐC xã Chiềng Ơn, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La 
79 
ASSESSMENT OF NATURAL RESOURCES FOR DEVELOPMENT 
LIVERLIHOODS OF THE RESETTLED CHIENG ON, QUYNH NHAI 
DISTRICT, SON LA PROVINVE 
Nguyen Thi Hong Nhung, Bui Thi Hoa Man, Le Thi Thu Hoa, Lo Van Thuat, 
Nguyen Thi Thao, Luong Van Chung 
 Tay Bac University 
 Asbtract: Natural resources (TNTN) is capital natural to livelihood development. There are five sources 
of livelihood capital for evaluation as humans, natural resources, physical capital, capital financial, social capital. 
A source in the capital to develop livelihoods at Chieng On, Quynh Nhai district very important, is natural. 
Natural has many advantages, but also more difficult. The terrain is mostly mountainous, the average height from 
400 - 500 meters deep divide large degree, favorable to farming, but farming difficult print on slopes. Land has a 
fairly large area, generally favorable to fertile agricultural development. Climate nature typical monsoon Northwest 
fields, divided into two seasons, favorable to agricultural development. However, the dry season extends deep, 
serious water shortages print production. Convenient water source to develop aquaculture and tourism developers 
reservoir. Starting from practical TNTN source likewise requires full assessment phải to develop sustainable 
livelihoods coal. 
 Keywords: Livelihoods, natural resources, the Son La hydropower, natural capital. 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_nguon_von_tai_nguyen_thien_nhien_de_phat_trien_sinh.pdf