Chế tạo và nghiên cứu tính chất của vật liệu ZnO pha tạp Ag
TÓM TẮT
Bài báo này trình bày kết quả nghiên cứu chế tạo vật liệu ZnO pha tạp Ag bằng
phương pháp phản ứng pha rắn ở nhiệt độ cao. Các tính chất vật lý của mẫu được
nghiên cứu bằng giản đồ nhiễu xạ tia X, phổ EDS, phổ tán xạ Raman, phổ huỳnh
quang. Kết quả cho thấy mẫu có độ sạch cao, kích thước hạt lớn (từ 1,8-5,3 µm).
Các phép đo cấu trúc và tính chất quang cho thấy Ag đã khuếch tán vào mạng tinh
thể ZnO sau khi nung ở nhiệt độ 12000C.
ml cồn 90 độ và khuấy từ tại nhiệt độ 200oC trong 20 phút. Sau đó, bột ZnO được thêm vào dung dịch AgNO3 đã hòa tan. Hỗn hợp trên được khuấy từ trong 6 giờ ở nhiệt độ 200oC cho đến khi bột khô hoàn toàn. 0,4 g polyvinyl alcohol được hòa tan trong 4g H2O rồi được trộn vào lượng bột trên. Sau đó bột được nghiền trong cối mã não cho đến khi thu được bột mịn và đồng đều. Sản phẩm cuối được đổ vào khuôn inox và ép viên dưới áp lực ép ~7 tấn/cm2. Mẫu sau đó được nung trong 4 giờ, ở các nhiệt độ 600oC, 800oC và 1200oC trong không khí để 1Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội Email: nguyenviettuyen@hus.edu.vn 2Đại học Mỏ Địa chất 3Trường Đại học Duy Tân TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 16 - 2020 ISSN 2354-1482 130 nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ lên quá trình Ag khuyếch tán vào vật liệu ZnO. Việc nung thiêu kết các mẫu khối được thực hiện bằng lò nung Nabertherm LF 15/14(Đức) tại Bộ môn Vật lý Chất rắn, Khoa Vật lý, trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. 3. Kết quả và thảo luận Kết quả nghiên cứu cấu trúc bằng nhiễu xạ tia X (hình 1, 2, 3) cho thấy vật liệu ZnO:Ag nung ở các nhiệt độ 600oC, 800oC, 1200oC sau 4 giờ trong không khí đều có cấu trúc lục giác wurtzite C6v với các đỉnh nhiễu xạ tương ứng với các mặt (hkl) là: (100), (002), (101), (102), (110), (103), (200), (112) và (201). Hình 1: Giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu khối ZnO (a); ZnO:Ag: 1% (b); 2% (c); 4% (d) nung ở 600oC trong không khí Hình 2: Giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu khối ZnO (a); ZnO:Ag: 1% (b); 2% (c); 4% (d) nung ở 800oC trong không khí Hình 3: Giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu khối ZnO (a); ZnO:Ag: 1% (b); 2% (c); 4% (d) nung ở 1200oC trong không khí Hình 4: Phổ EDS của mẫu khối ZnO:Ag (4%) nung ở 1200oC trong không khí TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 16 - 2020 ISSN 2354-1482 131 Giản đồ nhiễu xạ tia X ở nhiệt độ nung thấp 600oC và 800oC có xuất hiện các đỉnh phổ nhiễu xạ tại góc 2θ: 38,01o; 44,30o; 64,34o liên quan đến sự hình thành của pha tinh thể Ag. Các đỉnh nhiễu xạ này có cường độ tăng khi nồng độ Ag tăng. Tuy nhiên, khi nâng nhiệt độ ủ lên 1200oC, các đỉnh nhiễu xạ của pha tinh thể Ag trên các mẫu ZnO:Ag (1%, 2% và 4%) biến mất. Kết quả này cho thấy vật liệu thu được là đơn pha ZnO và tạp Ag có thể đã khuếch tán hết vào mạng tinh thể ZnO. Giản đồ XRD cũng cho thấy có sự dịch nhẹ các đỉnh nhiễu xạ về phía góc 2θ thấp khi tăng nồng độ pha tạp Ag ban đầu sau khi nung ủ ở nhiệt độ cao. Kết quả tính toán từ bảng 1 cho thấy, ở nhiệt độ nung 1200oC, mẫu ZnO pha tạp Ag có hằng số mạng c lớn hơn hằng số mạng c của mẫu ZnO. Điều đó có thể là do bán kính ion Ag+ (~1.22 Å) lớn hơn bán kính ion Zn2+ (~0.74 Å) nên đã làm dãn đáng kể mạng theo hướng trục c khi Ag được khuếch tán vào mạng ZnO. Bảng 1: Giá trị hằng số mạng tinh thể và kích thước tinh thể trung bình của mẫu khối ZnO, ZnO:Ag theo nồng độ pha tạp Ag ủ ở 1200oC Phổ EDS (hình 4) cho thấy trong mẫu khối chỉ tồn tại các nguyên tố gồm Zn, O và Ag, không chứa các nguyên tố tạp chất khác. Hình thái học bề mặt của mẫu khối được thể hiện trên ảnh SEM (hình 5) cho thấy kích thước hạt lớn (từ 1,8-5,3 µm), độ xếp chặt cao và ít lỗ trống. Ảnh SEM cũng cho thấy tạp Ag trong mạng tinh thể ZnO không làm ảnh hưởng nhiều đến kích thước hạt. Tuy nhiên, ảnh SEM chỉ ra rằng có thể độ xếp chặt của màng bị giảm đi khi pha tạp ở nồng độ cao. a b c d Hình 5: Hình ảnh SEM của mẫu khối ZnO (a) và mẫu khối ZnO pha tạp Ag: 1% (b); 2% (c); 4% (d) nung ở 1200oC STT Tên mẫu khối Hằng số mạng c (Å) a (Å) 1 ZnO 5,193 3,246 2 ZnO:Ag (1%) 5,198 3,247 3 ZnO:Ag (2%) 5,205 3,248 4 ZnO:Ag (4%) 5,201 3,249 TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 16 - 2020 ISSN 2354-1482 132 Phổ huỳnh quang của mẫu khối ZnO:Ag với các nồng độ khác nhau (0%, 1%, 2%, 4%) sau khi nung ở 1200 oC được thể hiện trong hình 6 với bước sóng kích thích là 325 nm. Hình 6: Phổ huỳnh quang của mẫu khối ZnO (a) và mẫu khối ZnO:Ag: 1% (b); 2% (c); 4% (d) Hình 7: Phổ Raman của mẫu khối ZnO (a) và ZnO:Ag (b: 2%, c: 4%) nung ở 1200oC Mẫu ZnO và ZnO:Ag với các nồng độ khác nhau đều có các đỉnh huỳnh quang hẹp ở 378 nm và một đỉnh huỳnh quang rộng trong khoảng 510-525 nm đặc trưng của ZnO. Tuy nhiên, ở mẫu pha 2% Ag và 4% Ag, ta thấy có xuất hiện thêm đỉnh huỳnh quang ~390 nm. Đỉnh 378 nm là sự phát xạ do tái hợp liên quan đến các exciton tự do, đỉnh này không biến mất mà xuất hiện bên trái của đỉnh ~390 nm. Hơn nữa, đỉnh phát xạ 390 nm có năng lượng là 3,18 eV - có giá trị nhỏ hơn nhiều so với năng lượng phát xạ exiton tự do (3,28 eV). Theo các kết quả tính toán mức năng lượng của các sai hỏng trong ZnO, khoảng năng lượng từ đáy vùng dẫn đến nút khuyết Zn (VZn) là 3,06 eV, năng lượng từ mức điền kẽ Zn (Zni) đến vùng hóa trị là 2,96 eV, hiệu năng lượng giữa mức liên quan đến điền kẽ oxi (Oi), hay nút khuyết oxi (VO) và vùng dẫn lần lượt là 2,28 eV; 1,62 eV đều thấp hơn năng lượng 3,18 eV của đỉnh 390 nm. Điều này cho thấy đỉnh 390 nm không phải do các dịch chuyển electron liên quan đến các đơn sai hỏng nội tại của ZnO. Đỉnh 390 nm có thể là bằng chứng cho sự tồn tại của tâm phát xạ liên quan đến tạp Ag trong mạng ZnO như đã được phát hiện trong một số công bố khác [10-11]. Hình 7 trình bày phổ Raman của mẫu ZnO và ZnO:Ag nung ở 1200oC. Các mẫu khối đều có đỉnh E2H (437 cm-1), A1(TO) (380cm-1), 3E2H-E2L(331cm-1) - đây là các đỉnh cơ bản đặc trưng cho các mode dao động của mạng tinh thể ZnO [6]. E2H là mode dao động của ion oxi, A1(TO) và 3E2H- E2L là mode dao động của Zn so với O. Phổ Raman của mẫu ZnO:Ag không xuất hiện thêm đỉnh lạ cho thấy Ag không làm thay đổi mạng tinh thể ZnO. Kết quả này phù hợp với giản đồ XRD đã quan sát được trên các mẫu. 4. Kết luận Mẫu ZnO:Ag đã được chế tạo thành công bằng phương pháp phản ứng pha rắn. Bề mặt mẫu mịn, ít lỗ trống, độ xếp chặt cao. Giản XRD, phổ huỳnh quang đã chỉ ra rằng trong số các nhiệt độ ủ đã TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 16 - 2020 ISSN 2354-1482 133 khảo sát, Ag chỉ khuếch tán vào mạng tinh thể ZnO và không làm thay đổi cấu trúc mạng tinh thể ZnO khi nhiệt độ ủ là 1200oC. Các kết quả nghiên cứu cũng gợi ý rằng mẫu pha tạp 1% có độ xếp chặt cao hơn các mẫu có nồng độ tạp cao hơn. Do đó mẫu pha tạp 1% Ag đã chế tạo có chất lượng tốt, phù hợp để làm bia trong phương pháp vật lý tạo ra các màng ZnO:Ag. Lời cảm ơn: Nghiên cứu này được Bộ Giáo dục và Đào tạo hỗ trợ thông qua đề tài mã số B2018-MDA-01-CtrVL. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. M. L. Lin, J. M. Huang, C. S. Ku, C. M. Lin, H. Y. Lee, and J. Y. Juang (2017), “High mobility transparent conductive Al-doped ZnO thin films by atomic layer deposition”, J. Alloys Compd., vol. 727, pp. 565-571 2. N.V. Tuyen, N.N. Long, T.T.Q. Hoa, N.X. Nghia, D.H. Chi, K. Higashimine, T. Mitani, T.D. Canh, (2009), “Indium-doped zinc oxide nanometre thick disks synthesised by a vapour-phase transport process”, J. Exp. Nanosci., vol. 4, no. 3, pp. 243-252 3. C. Moditswe, C. M. Muiva, and A. Juma (2016), “Highly conductive and transparent Ga-doped ZnO thin films deposited by chemical spray pyrolysis”, Optik (Stuttg)., vol. 127, no. 20, pp. 8317-8325 4. N. V. Tuyen, T. D. Canh, N. N. Long, N. X. Nghia, B. N. Q. Trinh, and Z. Shen (2009), “Synthesis of undoped and M-doped ZnO (M Co, Mn) nanopowder in water using microwave irradiation”, J. Phys. Conf. Ser., vol. 187, no. 3, pp. 1-7 5. R. Sánchez Zeferino, M. Barboza Flores, and U. Pal (2011), “Photoluminescence and Raman scattering in Ag-doped ZnO nanoparticles”, J. Appl. Phys., vol. 109, no. 1, pp. 014308(1) - 014308(6) 6. L.N. Wang, L.Z. Hu, H.Q. Zhang, Y. Qiu, Y. Lang, G.Q. Liu, J.Y. Ji, J.X. Ma, Z.W. Zhao (2011), “Studying the Raman spectra of Ag doped ZnO films grown by PLD”, Mater. Sci. Semicond. Process., vol. 14, no. 3-4, pp. 274-277 7. H. Wang, M. A. Myers, V. Khranovskyy, J. Jian, J. H. Lee, and H. Wang (2015), “Photoluminescence study of p-type vs. n-type Ag-doped ZnO films”, J. Appl. Phys., vol. 118, no. 6, pp. 065702(1) - 065702(7) 8. R. K. Gupta, K. Ghosh, and P. K. Kahol (2010), “Effect of substrate temperature on structural and optoelectrical properties of silver doped zinc oxide thin films”, Phys. E Low-Dimensional Syst. Nanostructures, vol. 42, no. 7, pp. 2000-2004 9. I. S. Kim, E. K. Jeong, D. Y. Kim, M. Kumar, and S. Y. Choi (2009), “Investigation of p-type behavior in Ag-doped ZnO thin films by E-beam evaporation”, Appl. Surf. Sci., vol. 255, no. 7, pp. 4011-4014 10. Kaipeng Liu, Beifang Yang, Hongwei Yan, Zhengping Fu, Meiwang Wen, Youjun Chen, Jian Zuo (2009), “Effect of Ag doping on the photoluminescence properties of ZnO films”, Journal of Luminescence, Volume 129, Issue 9, pp.19200-19203 TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 16 - 2020 ISSN 2354-1482 134 11. Y. Yan, M. Al-Jassim, S. –H. Wei (2006), “Doping of ZnO by group-Ib elements”, App. Phys. Letter 89 (18), pp. 181912(1) -181912(3) PREPARATION AND CHARACTERISTICS OF Ag DOPED ZnO ABSTRACT This paper presents the results of preparation for ZnO doped with Ag by solid state reaction at high temperature. Physics properties of the samples were thoroughly investigated by X-ray diffraction, energy dispersive spectroscopy, Raman scattering, photoluminescence measurements. The results show that the samples are pure, and have large grain size (from 1.8 – 5.3 µm). Analysis of structural and optical properties of the samples suggests that Ag diffused into ZnO host lattice after being annealed at 1200 oC. Keywords: Bulk sample, ZnO:Ag, solid state reaction, photoluminescence (Received: 8/10/2019, Revised: 23/10/2019, Accepted for publication: 25/10/2019)
File đính kèm:
- che_tao_va_nghien_cuu_tinh_chat_cua_vat_lieu_zno_pha_tap_ag.pdf