Cái nhìn nghệ thuật độc đáo và kiểu kết cấu “Người - Ta - Người ta” trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
TÓM TẮT
Bài viết này bàn về một số phương diện đặc sắc, độc đáo trong thơ chữ Hán Nguyễn
Du có ý nghĩa như là những nhân tố quan trọng góp phần làm nên tầm khái quát hiện thực
rộng lớn và độ sâu sắc của tư tưởng nhân văn Nguyễn Du: Cái nhìn nghệ thuật độc (riêng),
quan niệm nghệ thuật khác lòng người ta về hiện thực và con người; cách tiếp cận đối
tượng thẩm mỹ từ phương diện văn hóa tạo nên kiểu hiện thực văn hóa có khả năng khái
quát cao và sức sống lâu bền; miêu tả gắn liền với triết luận, xúc cảm đi liền với đánh giá;
đối tượng phản ánh được nhìn trong sự tham chiếu của bản chất vấn đề nối liền xưa với
nay và với cả những dự cảm mai sau. Đặc biệt, với kiểu cấu trúc Người – Ta – Người ta và
điểm nhìn con người trong những nghịch lý số phận ở giao điểm của trục lịch đại và đồng
đại, Nguyễn Du tạo nên những hệ hình tượng con người nhân văn mang những nghịch lý
nhân loại xuyên thời đại luôn cô đơn trên hành trình sống và đấu tranh để bảo vệ cái giá
làm người, đối lập và trái ngược với những hệ thống cái xấu, cái ác, cái tha hóa luôn truy
đuổi và tìm diệt những tinh hoa của con người, triệt tiêu quyền sống của con người; miêu tả
hiện thực đấu tranh của con người trong những cái kết bi thảm của những số phận cá biệt
nhưng lại làm bật lên chiến thắng của lý tưởng nhân văn mang tầm phổ quát của nhân loại,
vượt qua mọi thời gian và không gian.
một cách tiếp cận để làm rõ bản chất mang tính xã hội ngay cả ở những hành trạng khác người của Lý. Cái nhìn mới, cách cảm mới đó của Tố Như về Lý Thanh Liên tạo nên một hiệu ứng nghệ thuật mới trong kiểu kết cấu Người – Ta – Người ta. Nếu với Thi Thánh, Người và Ta hòa trong nghịch lý nỗi buồn riêng và niềm đau chung của những nhà nho chân chính phải chịu cảnh Nho quan đa ngộ thân, thì với Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 4(29)-2016 45 Thi Tiên là nỗi đau lớn của cái Đẹp trong cảnh đời nhơ đục và hỗn tạp, của tự do và nghệ thuật bị đóng khung như cảnh Thử thân dĩ tác phàn lung vật (Thân này đã làm chim trong lồng - Tân thu ngẫu hứng), và Sinh bình văn thái tàn lung phượng (Văn chương tôi lúc bình sinh như chim phượng phải nằm trong lồng nát – Tống Nguyễn Sĩ Hữu Nam quy). Từ miền giao thoa đó của Người với Ta, ánh sáng nhân văn của bi kịch của cái Đẹp tỏa rạng và lan xa thành nỗi đau chung của nhân loại – Người ta. Đối với Tam Lư đại phu, cái nhìn độc và quan niệm riêng của Tố Như về Người thể hiện trong hình tượng thẩm mỹ mang tính hệ thống của ba bài thơ (Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu (2 bài), và Phản chiêu hồn) thể hiện ở những điểm nhìn sau: Một là, viếng người đã khuất xưa nhưng Tố Như gọi về nay chân dung tinh thần bất tử của hiền nhân với những nét đẹp tiêu biểu nhất, nhân văn nhất như những giá trị còn mãi với thời gian, không gian: Người ham muốn tu dưỡng đức tốt ra đi đã hai nghìn năm,/ Đất này còn nghe thoảng mùi hương của hoa lan, hoa chỉ. Hương người xưa không chỉ còn lưu lại, bất tử mà còn sinh sôi: Bên bãi sông chòm đỗ nhược có thêm những giống hoa thơm. Hai là, từ điểm nhìn miêu tả chuyển sang điểm nhìn đánh giá, triết luận, và bằng cách đó, nâng tầm trực cảm của hình tượng Tam Lư đại phu lên tầm phổ quát của nhân loại, chuyển cái của Người trong sự giao thoa với Ta ở miền thương cảm, đồng vọng thành cái Người ta: Trực giao hiến lệnh hành thiên hạ, Hà hữu Ly tao kế Quốc phong?(...) Thiên cổ thùy nhân liên độc tỉnh, Tứ phương hà xứ thác cô trung? (Ví như hiến lệnh được ban hành trong thiên hạ,/ Thì làm gì có được Ly tao nối tiếp Quốc phong?/ Nghìn xưa có ai thương người một mình tỉnh táo,/ Bốn phương có chốn nào gửi được tấm lòng cô trung?) Ở đây, thêm một lần nữa, trong quan niệm của Tố Như thì nghịch lý của văn chương thành chuyện của nhân loại muôn đời: Văn chương đích thực bật lên từ nỗi đau lớn; con người nhân văn một mình tỉnh táo luôn cô biệt xưa nay, mà một khi đã như thế thì Hà dĩ thanh tinh khan thế sự,/ Phù bình nhiễu nhiễu cánh kham ai như chính Tố Như bây giờ đây! Ba là, hình tượng Tam Lư đại phu được nhìn trong thế đối lập với xã hội giữa ánh sáng và bóng tối, giữa cao khiết và thấp hèn, giữa trung thực và giả giối, giữa thiên lương và ác quỷ trong thái độ phủ định triệt để những Thượng quan ngày nay: Xuất giả khu xa, nhập cứ tọa, Tọa đàm lập nghị giai Cao, Quỳ. Bất lộ trảo nha dữ giác độc, Giảo tước nhân nhục cam như di! (Khi đi ra đường thì giong ruổi xe,/ Họ đứng ngồi bàn tán như ông Cao, ông Quỳ./ Họ che giấu nanh vuốt và nọc độc,/ Nhưng cắn xé thịt người ngọt xớt như đường). Quan niệm và cái nhìn của Nguyễn Du về Khuất Nguyên trong Phản chiêu hồn cũng độc, cũng khác lòng người ta, và đặc biệt là trái ngược với cái nhìn và quan niệm của Tống Ngọc trong Chiêu hồn. Qua đó, thái độ phủ định của Phản chiêu hồn không chỉ dừng lại một hạng người nào mà phổ trùm lên cả không gian bụi cuốn mù mịt, tang thương và bi thảm, mênh mông không giới hạn: Hậu thế nhân nhân giai Thượng quan, Đại địa xứ xứ giai Mịch La. Ngư long bất thực, sài hổ thực, Hồn hề! Hồn hề! Nại hồn hà? (Đời sau người đều là Thượng quan,/ Mặt đất này đâu đâu cũng là sông Mịch Hoàng Trọng Quyền Cái nhìn nghệ thuật độc đáo và kiểu kết cấu người - ta - người ta.... 46 La./ Cá rồng chẳng nuốt, hùm sói cũng ăn./ Hồn ơi! Hồn ơi! Hồn làm thế nào?) Trong hình tượng này, Ta hòa vào trong cái đẹp và cả trong nỗi bi phẫn của Người để thấu hiểu và đau xót mà thiết tha kêu gọi, khẩn nài hồn Người rằng đừng về đây nữa. Cái nỗi cô trung, cái chết oan của Người có nguyên cớ từ bi kịch, bi kịch của cái Đẹp - Tài - Tình. Và điều đó cũng chẳng khác gì bi kịch của Lý Thanh Liên, của Đỗ Thiếu Lăng và bây giờ là đang là của chính Tố Như đây, phổ quát thành chuyện của Người ta. 3. Kết luận Cái nhìn nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật và bút pháp xây dựng, kiến tạo cấu trúc hình tượng trong thơ chữ Hán Nguyễn Du nổi bật trên nền thơ trung đại không chỉ của Việt Nam mà cả với Trung Quốc. Trong đó, cái nhìn độc, quan niệm mới mẻ, sáng tạo và kiểu kết cấu hình tượng Người – Ta – Người ta là những đặc trưng tiêu biểu, góp phần đáng kể trong việc tạo giá trị và sức sống vượt thời gian và không gian cho những sáng tạo nghệ thuật mà Tố Như đã phải Bách niên niên cùng tử văn chương lý. Tố Như đem trong sạch, tỉnh táo để nhìn đời, để như cánh bèo trôi giạt rất đáng thương. Với cái nhìn trong trạng huống dường như đã vượt thoát lên tất cả ấy, Tố Như đọc thấu cái lõi của sự thật, của thế thái nhân tình, của nguyên cớ bao nỗi trầm luân kiếp người. Đó là cách tiếp cận và cảm quan cuộc sống và con người bằng văn hóa. Nghĩa là, nhìn từ văn hóa thì những vấn đề tinh chất của đối tượng không bị chìm vào tình thế sự việc cụ thể trực cảm của đối tượng, nhìn trong sự soi chiếu từ nhiều thời gian, không gian để định giá trị đối tượng và làm bật nổi cái căn cốt của đối tượng thẩm mỹ. Tiêu biểu như số phận của những nhân vật lịch sử, văn hóa Trung Quốc nói chung và với Khuất Nguyên, Lý Bạch, Đỗ Phủ nói riêng trong đề tài sáng tác của Nguyễn Du vốn là những sự kiện quen thuộc đã có trước trong lịch sử, văn hóa Trung Quốc. Nhưng đến Tố Như, ông không chỉ lạ hóa đối tượng trong kỹ năng sáng tác để tạo cái mới, cái lạ mang dấu ấn sáng tạo riêng bởi chính ông đã nói rằng Linh văn bất tại ngôn ngữ khoa (Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài), mà cái nhìn và quan niệm đó thể hiện đặc trưng tư duy nghệ thuật với tư tưởng nhân văn sâu sắc, mới mẻ của Tố Như: Xoáy sâu và làm nổi bật bản chất đối tượng thẩm mỹ trên nền văn hóa chung của nhân loại, nối xưa với nay và dõi về nghìn năm sau, kết trần gian với âm phủ trong những linh giác về con người bằng tiêu chí văn hóa và nhân văn; khơi tỏa những ý nghĩa và giá trị của đối tượng từ hiện tượng cá biệt cụ thể thành vấn đề có tính phổ quát của nhân loại. Qua nghịch lí tiêu biểu đó trong thơ Nguyễn Du, cái lõi của hiện thực cuộc sống hiển lộ với những vấn đề trọng yếu nhất của con người luôn tồn tại và chảy xuyên qua các thời đại. Để phát hiện ra các nghịch lí trong số phận con người, ngoài sự cộng hưởng chân thành tha thiết của trái tim người nghệ sĩ với nỗi đau nhân tình, Tố Như, với mẫn cảm và linh giác thiên tài, đã nhìn ra được cái bản chất, quy luật ẩn chìm sau những cái có vẻ ngẫu nhiên của hình thức, hiện tượng. Hơn nữa, Tố Như đã thể hiện cái nhìn, quan niệm trong những trạng thái đặc thù của hình thức nghệ thuật mà thông qua nó, lần đầu tiên người ta tìm thấy nội dung tư tưởng mới. Kiểu kết cấu hình tượng Người – Ta – Người ta là một trong những biểu hiện hình thức mới của cái nhìn mang tính đặc thù của Tố Như. Theo ngôn từ và cách diễn đạt của M. Bakhtin thì đó là hình thức mới của cái nhìn và khi không hiểu Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 4(29)-2016 47 được hình thức mới của cái nhìn thì không thể hiểu được những gì trong cuộc sống mà lần đầu tiên được nhận ra và phát hiện nhờ các hình thức ấy(10) . VIEWS OF THE UNIQUITY AND OF BEING DIFFERENT FROM OTHERS AS WELL AS THE STRUCTURE YOU – I – THEY IN ANCIENT CHINESE POEMS OF NGUYEN DU Hoang Trong Quyen ABSTRACT The paper disscuses some unique aspects of Nguyen Du, as presented in his ancient Chinese poems , as important factors in constructing his great and profound humanism. The aspects inclue: the “uniquity”, the aware of being different from others in views of nature, reality and human beings; cultural approach to subjects, creating a type of cultural realities that were able to presenting longer and lager perspectives of life; descipitions associated vith philosophies, emotions with appreciations; and fusions of various subjects in three dimentions of time: past, present and future. Especially, by the type of structure You-I-They as well as the point of view on human condition at the intersection of synchronic - diachronic axes, Nguyen Du created humanistic individuals who suffers irrationality of human life, and was always lonely in the struggle for human dignity. Additionlly, Nguyen Du described tragic fates of individuals through which universal humanistic ideals of humanity were glorified regardless time and space. CHÚ THÍCH (1) Đương thời, Lý Bạch được vinh danh là Thi Tiên, Đỗ Phủ là Thi Thánh, Vương Duy là Thi Phật (2) Lý Bạch tự cho mình là vị Trích tiên (3) Lê Nguyên Lưu, Đường thi tuyển dịch, NXB Thuận Hóa, 1997, tr. 422. (4) Đỗ phủ tinh tuyển, NXB Văn học, 2012, tr. 201 (5) Thơ Đỗ Phủ (Hoàng Trung Thông giới thiệu), NXB Văn học, 1962, tr. 248. (6): Mai Quốc Liên, Nguyễn Quảng Tuân, Ngô Linh Ngọc, Lê Thu Yến, Nguyễn Du toàn tập, NXB Văn học, Trung tâm nghiên cứu Quốc học, 1996, t.1, tr.93. Các trích dẫn thơ chữ Hán của Nguyễn Du đều dẫn theo tài liệu này. (7) Thơ Đỗ Phủ (Hoàng Trung Thông giới thiệu), 1962 , Bđd, tr. 254. (8) Lê Nguyên Lưu, Đường thi tuyển dịch, Bđd, tr.599. (9) Thơ Đỗ Phủ (Hoàng Trung Thông giới thiệu), Bđd. (10) M. Bakhtin, Những vấn đề thi pháp Đôtxtôiepxki (Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch), NXB Giáo dục, 1998, tr. 10. Ngày nhận bài: 20/04/2015 Chấp nhận đăng: 13/06/2016 Liên hệ: Hoàng Trọng Quyền Trường Đại học Thủ Dầu Một Email: quyenht@tdmu.edu.vn
File đính kèm:
- cai_nhin_nghe_thuat_doc_dao_va_kieu_ket_cau_nguoi_ta_nguoi_t.pdf