Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với việc xây dựng giai cấp công nhân ở Việt Nam hiện nay
TÓM TẮT
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang tác động mạnh mẽ, toàn diện đến đời sống kinh
tế - xã hội của các quốc gia trên thế giới. Đứng trước bối cảnh đó, các nước trên thế giới đều đã có
những bước đi đầu tiên nhằm thích ứng và tận dụng cuộc cách mạng này. Việt Nam đang trong quá
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, “phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại”. Thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa làm
cho nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại đó là trách nhiệm của toàn Đảng,
toàn dân mà giai cấp công nhân là nòng cốt. Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là một điều kiện
tiên quyết bảo đảm thành công của công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, điều
đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta cần nhạy bén, nắm bắt cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ tư, điều chỉnh chiến lược và cách thức xây dựng giai cấp công nhân sao cho phù hợp, để giai
cấp công nhân phát huy vai trò và trách nhiệm của lực lượng đi đầu trong quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bài nghiên cứu giới thiệu khái quát về cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư; tầm quan trọng của chiến lược xây dựng giai cấp công nhân; thực trạng giai cấp
công nhân Việt Nam và đề xuất một số giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong bối
cảnh của cuộc CMCN 4.0
ty, nhất là trong khu vực kinh tế tư nhân và tư bản nước ngoài. Do đó, công đoàn chưa làm tốt chức nĕng bảo vệ lợi ích cho công nhân và lao động, đó là chưa nói đến chức nĕng giáo dục chính trị, tư tưởng và tổ chức đời sống vĕn hóa tinh thần cho công nhân và lao động, nhất là quan tâm tới đời sống, sự tiến bộ và bình đẳng giới cho nữ công nhân và lao động. Sự phụ thuộc, lệ thuộc và chính quyền, tính hình thức và hành chính trong hoạt động đã làm cho công đoàn ít tác dụng, không lôi cuốn được công nhân và lao động mà lẽ ra công đoàn phải thực sự là chỗ dựa tin cậy và gắn bó của bản thân họ. Thứ tư, các tổ chức Đảng, các cấp ủy 147 Cách mạng công nghiệp... cũng chưa thường xuyên quan tâm và đầu tư đúng mức để chĕm lo phát triển giai cấp công nhân và phong trào công đoàn. Đi vào kinh tế thị trường, nhiều khi chúng ta đã chỉ thấy lợi ích kinh tế, quan tâm tới kinh doanh, mức tĕng trưởng kinh tế và lợi nhuận mà đã buông lỏng, xem nhẹ giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, vĕn hóa. Nó dẫn đến nhiều hiện tượng lệch lạc, tiêu cực về mặt xã hội, trong các quan hệ xã hội, kể cả những lệch lạc tiêu cực trong công nhân, nhất là công nhân trẻ, cả trong khu vực kinh tế Nhà nước và trong khu vực kinh tế tư nhân. Yếu kém và sơ hở này phải được nhanh chóng khắc phục. Chính sách, cơ chế, luật pháp của nhà nước lại chậm thay đổi và không ít trường hợp cũng không nhất quán. Do đó, việc chĕm lo tới lợi ích, thực hiện công bằng xã hội cho công nhân, bảo vệ lợi ích và tạo động lực cho họ phát triển đã không được đảm bảo thường xuyên, còn nhiều thiết hụt và bất cập. Trong vấn đề này, cần phải tạo ra được chuyển biến cĕn bản để cải thiện đời sống công nhân, nhất là công nhân trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Không nên quên rằng, đình công, bãi công lan rộng của công nhân chẳng những ảnh hưởng tới sản xuất- kinh doanh mà còn dẫn tới mất ổn định xã hội và chính trị, gây bất lợi cho đổi mới và phát triển. Đảng, Nhà nước, công đoàn phải nhanh chóng có giải pháp, nhất là xác lập trách nhiệm rõ ràng, có cơ chế, chế tài minh bạch giữa các bên theo hợp đồng lao động, theo luật đầu tư, luật doanh nghiệp, luật lao động và luật công đoàn. Phải đảm bảo về quyền và lợi ích của công nhân trong khi vẫn đẩy mạnh thu hút đầu tư và tạo điều kiện cho các chủ đầu tư nước ngoài làm ĕn, kinh doanh ở Việt Nam. Vấn đề là ở chỗ, phải tuân thủ đúng luật pháp, thực hiện dân chủ, công bằng, bình đẳng, giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích giữa các bên. Thứ nĕm, do những sự quan tâm tới công nhân không đúng mức nên ở nước ta đang có những biểu hiện lệch lạc về cơ cấu xã hội, dẫn đến tình trạng “nhiều thầy ít thợ”, đã và đang mất đi một truyền thống quy báu là gia đình công nhân truyền thống nhiều đời. Các thợ giỏi, các “bàn tay vàng” trong đội ngũ công nhân đã bị mai một nghiêm trọng. Thế hệ trẻ chỉ thấy triển vọng lập thân lập nghiệp bằng cách vào Đại học. Các bậc làm cha mẹ, kể cả cha mẹ làm công nhân cũng không muốn cho con em mình theo đuổi nghề thợ, làm thợ. Nền giáo dục nước ta vốn lạc hậu và suy thoái nghiêm trọng, kéo dài cùng với cả xã hội phải gánh chịu trách nhiệm này. Quản lý xã hội cũng không thể không quan tâm giải quyết vấn đề xã hội rất trái tự nhiên này. Từ 5 tình huống có vấn đề nêu trên, cần phải nhận thức và hành động như thế nào về chính sách với công nhân và tiến tới có một chiến lược xây dựng, phát triển giai cấp công nhân Việt Nam theo tinh thần NQTW 6, khóa X của Đảng, trước bối cảnh của cuộc CMCN 4.0. Dưới đây là một số đề xuất và kiến nghị bước đầu đối với Đảng và Nhà nước. Thứ nhất, tạo chuyển biến nhận thức từ trong Đảng đến ngoài xã hội để có sự quan tâm chung đối với công nhân, coi đây là nguồn nhân lực chủ yếu, trọng yếu quyết định thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Giáo dục ý thức giai cấp trong công nhân, nhất là đối với thế hệ công nhân trẻ. Đặt vấn đề này một cách đúng mức trong giáo dục lý luận chính trị của Đảng, trong xây dựng Đảng về chính trị để giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Giác ngộ về ý thức giai cấp, tình cảm và niềm tự hào giai cấp là cơ sở để hình thành bản lĩnh giai cấp công nhân, về vai trò sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân. Phương diện chính trị tư tưởng này phải được đặc biệt coi trọng trong xây dựng và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam cả về số lượng và chất lượng. Đây là việc cơ bản và lâu dài. Thứ hai, thực hiện nghiêm chỉnh các giải pháp mà Đảng đã đề ra trong NQTW 6 khóa X về giai cấp công nhân. Trong đó, cần phải tập trung sửa đổi, ban hành chính sách quốc gia đối với công nhân và lao động. Cấp thiết nhất lúc này là đảm bảo việc làm ổn định, xây dựng và thực hiện thang bậc lương, mức lương, mức thưởng cho công nhân, đảm bảo cho công nhân và gia đình họ có đời sống no đủ, con em họ không thất học, bỏ học vì nghèo khổ. Nhà nước phải đặc biệt quy định về chính sách và chế tài để các chủ doanh nghiệp tư nhân phải trả lương cho lao động mà họ sử dụng sao cho lợi ích hợp pháp chính dáng của công nhân không bị vi phạm, đảm bảo ổn định và an toàn cho cuộc sống, thân thể, sức khỏe của họ. Giải quyết nhà ở và an toàn lao động cho công nhân bằng các quy định về bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội. Trong các giải pháp về giai cấp công nhân mà NQTW 6 khóa X đề ra, cần phải chú trọng mở mang và phát triển giáo dục chuyên nghiệp, dạy nghề, đào tạo nghề cho công nhân bằng nhiều hình thức và mô hình. Có hệ thống 148 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật trường công lập của Nhà nước ở Trung ương và địa phương, có trường dân lập, trường lớp đào tạo trong doanh nghiệp, công ty, tập đoàn chú trọng các nghề mới, sử dụng công nghệ hiện đại. Phân luồng đào tạo, cân đối giữa đào tạo nghề với đào tạo đại học, gây dựng dư luận xã hội tích cực để cổ vũ, tôn vinh nghề thợ, người thợ. Coi các thợ giỏi, bàn tay vàng, thợ bậc cao là vốn quý, là chất xám của xã hội, chứ chất xám không chỉ nói về trí thức khoa học. Khôi phục và phát triển truyền thống gia đình công nhân nhiều đời bằng các đòn bẩy kích thích lợi ích. Dĩ nhiên, trong đà phát triển của xã hội hiện đại, mô hình này phải là công nhân hiện đại, công nhân trí thức sáng tạo, công nhân tài nĕng làm chủ kỹ thuật - công nghệ. Thứ ba, kết hợp tri thức hóa với trí thức hóa công nhân, xây dựng đội ngũ công nhân trí thức trong giai cấp công nhân Việt Nam, coi đây là nòng cốt để phát triển giai cấp công nhân. Tri thức hóa công nhân là phổ cập và nâng cao trình độ học vấn phổ thông cho đông đảo công nhân và lao động, gắn với nâng cao dân trí, xây dựng xã hội học tập, đào tạo nhân lực chất lượng cao. Còn trí thức hóa công nhân là sớm hình thành đội ngũ công nhân trí thức trong các ngành kinh tế mũi nhọn, trọng điểm quốc gia, có kiến thức, kỹ nĕng, tay nghề cao, hiện đại, lao động bằng trí óc, sáng tạo như trí thức. Có chính sách khuyến khích công nhân học tập vươn tới công nhân trí thức. Thứ tư, quan tâm phát triển Đảng trong công nhân, nhất là công nhân trẻ, công nhân trí thức, gắn xây dựng giai cấp công nhân với xây dựng Đảng và đẩy mạnh đổi mới hệ thống chính trị. Muốn thực sự coi xây dựng Đảng là then chốt thì phải đặc biệt chú trọng xây dựng giai cấp công nhân, củng cố sự vững mạnh của công nhân và công đoàn, coi đây là cơ sở xã hội chủ yếu nhất để xây dựng Đảng, Nhà nước, bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ nói chung. Thực hành dân chủ, quy chế và pháp lệnh dân chủ tại các cơ sở doanh nghiệp và công ty, trong công nhân và công đoàn. Dựa vào giai cấp công nhân, vào quần chúng công nhân và lao động để xây dựng và củng cố nền dân chủ, nhà nước pháp quyền, triệt để chống tham nhũng, chống diễn biến hòa bình, phòng ngừa nguy cơ tự diễn biến hòa bình, Thứ nĕm, tiếp tục đổi mới công đoàn và hệ thống chính trị nói chung, dân chủ hóa đời sống công nhân, các tổ chức và phong trào công đoàn, làm cho công đoàn có sức sống, hấp dẫn, lôi cuốn công nhân tham gia quản lý và tự quản lý tại cơ sở nơi làm việc. Thứ sáu, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về công nhân và công đoàn, đặc biệt ở các thành phố lớn. 4. KẾT LUẬN Cuộc CMCN 4.0 đang tác động sâu sắc vào sản xuẩt, vào quản lý và đời sống xã hội nói chung, đang đòi hỏi sự biến đổi sâu sắc tính chất, phương thức lao động của công nhân. Trong môi trường kinh tế - xã hội đổi mới, trong đà phát triển mạnh mẽ của CMCN 4.0, giai cấp công nhân Việt Nam đứng trước thời cơ phát triển và những thách thức, nguy cơ trong phát triển. Do vậy, xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong bối cảnh của cuộc CMCN 4.0 trở thành vấn đề hệ trọng đối với phát triển nhanh và bền vững ở nước ta. 5 giải pháp lớn, chủ yếu nêu trên có ý nghĩa là những nhóm giải pháp nhằm vào xây dựng và phát triển giai cấp công nhân ở nước ta, đáp ứng những đòi hỏi của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và xây dựng CNXH ở nước ta trong bối cảnh của cuộc CMCN 4.0. Thực hiện những giải pháp này cũng như thực hiện các nhiệm vụ mà NQTW 6, khóa X của Đảng đã vạch ra là trách nhiệm của hệ thống chính trị, của bản thân giai cấp công nhân và các tổ chức công đoàn, của mỗi người, mỗi tổ chức trong cả nước, ở tất cả các cấp, các ngành. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Khoa học và Công nghệ, Báo cáo về CMCN 4.0, 4/ 2017. 2. Báo cáo của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, 9/2015. 3. Báo cáo của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, 2012- 2013 4. Đảng cộng sản Việt Nam, Vĕn kiện hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X. Nxb CTQG, H. 2008. 5. Đảng cộng sản Việt Nam, Vĕn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ X. Nxb.CTQG, H.2006. 6. Giai cấp công nhân Việt Nam – thực trạng và suy ngẫm. Tạp chí cộng sản số 23, nĕm 2007. 7. ĐCSVN: Vĕn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011 8. ĐCSVN: Vĕn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016,
File đính kèm:
- cach_mang_cong_nghiep_lan_thu_tu_voi_viec_xay_dung_giai_cap.pdf