Biến đổi về tính cộng đồng của người dân Đà Nẵng trong quá trình đô thị hóa
Tóm tắt: Quá trình đô thị hóa nhanh đã, đang làm thay đổi phương thức sản xuất và
tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội của người dân Đà Nẵng nói chung và tính cộng
đồng nói riêng. Từ kết quả khảo sát người dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, nghiên cứu
góp phần làm rõ sự biến đổi về tính cộng đồng của người dân Đà Nẵng dưới tác động của đô
thị hóa, đồng thời đề xuất một số giải pháp nâng cao tính cộng đồng của người dân Đà Nẵng
trong bối cảnh hiện nay
ười làm theo hình thức “trọn gói”. Hình 2 chỉ ra một số nguyên nhân làm giảm mức độ gắn kết giữa các thành viên của cộng đồng. Trong đó, áp lực về thời gian vẫn là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến việc tham gia hoạt động của cộng đồng, khi có tới 75,8% người được hỏi (18,3 hoàn toàn đồng ý, 57,5% đồng ý), trả lời rằng họ không có thời gian tham gia hoạt động chung của cộng đồng. Kế tiếp là nguyên nhân do thiếu không gian cho hoạt động chung của cộng đồng với 63,8% (16,7 hoàn toàn đồng ý, 47,1% đồng ý). Nguyên nhân do thiếu thông tin về hoạt động chung của cộng đồng (58,2%) và nguyên nhân do tổ chức cộng đồng năng về hình thức (56,7%) cũng được xác định là các nguyên nhân chủ yếu gây ảnh hưởng xấu đến mức gắn kết của các thành viên. Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài B2018-DDN04-14, năm 2019 Thực trạng này đặt ra nhiều vấn đề nan giải cho việc thúc đẩy mối quan hệ cộng đồng trong dân cư ở thành phố Đà Nẵng hiện nay. Đầu tiên, áp lực của việc gia tăng quy mô dân số cơ học là thách thức lớn đối với tính cộng đồng. Theo dự báo, dân số Đà Nẵng sẽ đạt mức 2,5 triệu người trong năm 2030, điều này cũng đồng nghĩa với việc cần phải quy hoạch lại dân cư, bố trí xây dựng các khu dân cư mới. Đặc biệt, việc tăng dân số cơ học sẽ đặt ra thách thức lớn Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, Số 03 (65) - 2020 59 đối với vấn đề đảm bảo an ninh trật tự an toàn xã hội - yếu tố có ảnh hưởng quan trọng đến việc xây dựng lòng tin giữa các bộ phận dân cư. Thứ hai, quy hoạch không gian đô thị gặp khó khăn do quỹ đất của thành phố hiện nay còn rất hạn chế, nhất là việc đảm bảo các không gian sinh hoạt chung của cộng đồng đã khó lại càng trở nên khó khăn hơn. Thứ ba, sự phát triển của nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh ngày càng lớn, khốc liệt sẽ có thể làm gia tăng mâu thuẫn giữa các cá nhân và giữa cá nhân với lợi ích cộng đồng. Sự xung đột giữa lối sống đô thị và lối sống nông thôn cũng là một trong những vấn đề phức tạp trong việc xây dựng quan hệ cộng đồng trong bối cảnh hiện nay. Thứ tư, với việc xuất hiện nhiều mối quan hệ kinh tế, xã hội mới đan xen phức tạp sẽ tạo áp lực lớn cho hệ thống chính trị, nhất là đội ngũ cán bộ cơ sở, vốn còn nhiều hạn chế, yếu kém. 5. Kết luận và một số kiến nghị chính sách Quá trình đô thị hóa ở thành phố Đà Nẵng trong thời gian qua đã tạo nên những bước chuyển mạnh mẽ về mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đời sống của người dân được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa cũng đã và đang có những tác động tiêu cực đến sự gắn kết giữa các thành viên trong cộng đồng dân cư, tiềm ẩn những nguy cơ ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của thành phố. Trên cơ sở phân tích những biến đổi về tính cộng đồng của người dân TP Đà Nẵng dưới tác động của đô thị hóa, nghiên cứu này đề xuất một số kiến nghị chính sách chủ yếu như sau: Một là, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng. Trên thực tế, lợi ích của cá nhân và lợi ích của cộng đồng đôi lúc có xu hướng trái ngược nhau, điều này dễ dẫn tới sự xung đột, phá vỡ sự liên kết giữa các thành viên trong cộng đồng. Do đó, để mỗi cá nhân thực sự gắn kết với cộng đồng, cần có giải pháp giúp họ nhìn thấy được lợi ích của mình trong mối quan hệ gắn kết với lợi ích của cộng đồng, chỉ thông qua mối quan hệ gắn kết với cộng đồng thì việc đạt được lợi ích của cá nhân mới có thể bền vững và được cộng đồng tôn trọng. Vì vậy, cần tạo điều kiện để mỗi thành viên có cơ hội để được nói lên ý kiến, biểu đạt nhu cầu và nguyện vọng chính đáng của mình. Ngược lại, cộng đồng muốn phát triển phải tránh bệnh hình thức, phải hướng đến mang lại lợi ích thiết thực cho mỗi thành viên trong cộng đồng, trong đó cần làm tốt vai trò hỗ trợ các thành viên về khía cạnh kinh tế, trật tự an toàn xã hội, vệ sinh môi trường, trợ giúp về việc làm, nhà ở, trợ giúp pháp lý,. Hai là, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức cộng đồng dân cư sinh sống trên địa bàn. Việc giáo dục tuyên truyền cần gắn liền với tình hình thực tiễn của một cộng đồng dân cư, với nhiều hình thức phong phú, linh hoạt phù hợp với từng đối tượng. Trong đó cần tập trung vào việc giáo dục thế hệ trẻ ý thức được tầm quan trọng về mối quan hệ gắn kết với cộng đồng. Tuyên truyền giáo dục cần phát huy vai trò tiên phong gương mẫu của cán bộ Đảng viên nơi cơ sở cư trú. Ba là, xây dựng môi trường dân chủ trong cộng đồng dân cư. Người dân phải là chủ thể thực sự của mọi hoạt động trong cộng đồng dân cư, từ việc xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra giám sát. Cần đảm bảo tính công khai minh bạch trong các hoạt động của cộng đồng, đặc biệt là vấn đề định hướng phát triển cộng đồng, thu chi tài chính phục vụ cho hoạt động chung của cộng đồng. Chỉ có như vậy, người dân mới thấy được mối liên hệ giữa mình với cộng đồng dân cư, thấy được lợi ích của mình trong lợi ích của cộng đồng, thấy được bản thân mình trong bản sắc chung của cộng đồng. Bốn là cần thể chế hóa, quy tắc hóa về cách thức tổ chức và vận hành các mối quan hệ cơ bản trong cộng đồng dân cư, làm cơ sở để điều chỉnh các hành vi ứng xử giữa các thành 60 Lê Hữu Ái, Lê Văn Thao viên trong cộng đồng, tạo lập thói quen sống và làm việc theo luật pháp và các quy tắc chung của cộng đồng. Đồng thời, phải xử lý nghiêm minh các hành vi cố ý đi ngược lại với lợi ích của cộng đồng, làm tổn hại đến mối quan hệ tốt đẹp giữa các thành viên trong cộng đồng. Năm là, cần rà soát công tác quy hoạch đô thị, từ việc lập kế hoạch, thực hiện và kiểm tra giám sát thực hiện quy hoạch đô thị. Trong đó, cần xử lý dứt điểm tình trạng quy hoạch treo, quy hoạch phải đảm bảo không gian sinh hoạt chung của cộng đồng, không gian cây xanh,... Giảm thiểu việc phá vỡ các không gian văn hóa truyền thống mang tính bản sắc của mỗi cộng đồng dân cư. Cần xây dựng nhiều sân chơi, nhiều hoạt động làm tăng tính tương tác giữa các thành viên trong cộng đồng, những hoạt động thể hiện được bản sắc riêng của mỗi cộng đồng. Sáu là, khai thác và vận dụng tốt những thành tựu khoa học công nghệ trong kết nối các thành viên trong cộng đồng thông qua các diễn đàn như Facebook, Zalo, các trang website của chính quyền. Hiện nay, người dân sử dụng các thiết bị thông minh ngày càng nhiều và mang tính phổ biến. Nếu khai thác tốt trào lưu này, các công cụ này sẽ có thể giúp cho các cá nhân có điều kiện tương tác với nhau, cập nhật được các hoạt động của cộng đồng, các thành viên có điều kiện thể hiện tâm tư nguyện vọng, đóng góp cho sự phát triển chung của cộng đồng. Bảy là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở, những người trực tiếp thực hiện các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, trực tiếp tiếp xúc với người dân. Đây là lực lượng đóng vai trò tiên phong dẫn dắt các hoạt động chung của cộng đồng, tiếp nhận và xử lý các xung đột giữa các thành viên trong cộng đồng, giữa cá nhân với cộng đồng. Vì vậy, cần thiết kế những chương trình đào tạo nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ cơ sở, nhất là năng lực về công tác dân vận và hòa giải, đồng thời phải có cơ chế kiểm soát nhằm kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm những cán bộ cơ sở có biểu hiện theo tha hóa phẩm chất đạo đức không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Ngoài ra, cần phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội trong việc vận động người dân tham gia các hoạt động chung của cộng đồng, cũng như giải quyết các xung đột giữa các thành viên của cộng đồng. Chú thích Kết quả nghiên cứu này nằm trong khuôn khổ đề tài khoa học cấp Đại học Đà Nẵng, mã số B2018-DDN04-14 về Đánh giá tác động của quá trình đô thị hóa đến tính cộng đồng của người dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, được tài trợ bởi Quỹ Phát triển Khoa học Công nghệ - Đại học Đà Nẵng”. Tài liệu tham khảo Bachrach, K. M., & Zautra, A. J. (1985). Coping with a community stressor: The threat of a hazardous waste facility. Journal of Health and Social Behavior, 26, 127-141. Đỗ Long. (2000). Quan hệ cộng đồng và các nhân trong tâm lý nông dân. Nxb Khoa học xã hội. Etzioni, A. (1994). Spirit of community. Simon and Schuster. Lê Văn Hảo. (2004). Về khái niệm tính cộng đồng và tính cá nhân. Tạp chí Tâm lý học, số 9, 14. Lê Văn Thao. (2018 - 2020). Đánh giá tác động của quá trình đô thị hóa đến tính cộng đồng của người dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Đề tài khoa học cấp Đại học Đà Nẵng, mã số B2018-DDN04-14. Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, Số 03 (65) - 2020 61 McMillan, D. W. & Chavis, D. M. (1986). Sense of community: A definition and theory. Journal of Community Psychology, 14, 9. Nguyễn Cửu Loan. (2019). Nhiều thách thức cho văn hóa đô thị Đà Nẵng. Truy xuất từ ngày 25/10/2019. Nguyễn Đăng Mạnh. (2019). Đô thị hóa và đô thị hóa bền vững ở Đà Nẵng - Thực trạng và những vấn đề đặt ra hiện nay. Tạp chí Non Nước, số 228, 85-90. Nguyễn Dũng Anh. (2016). Việc làm cho nông dân bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá ở thành phố Đà Nẵng. Nxb Lý luận chính trị. Phạm Hảo. (2006). Xây dựng đời sống đô thị trong quá trình đô thị hóa ở thành phố Đà Nẵng - Thực trạng và những giải pháp. Đề tài khoa học cấp Thành phố, Sở khoa học và công nghệ thành phố Đà Nẵng. Phan Thị Mai Hương. (2009). Tâm trạng của các nhóm cư dân Đà Nẵng trước những biến đổi về xã hội do tác động của đô thị hóa. Tạp chí Tâm lý học, số 3, 19. Trần Ngọc Thêm. (1996). Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. Nxb TP. Hồ Chí Minh. Trần Văn Bính. (1998). Văn hóa trong quá trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay. Nxb Chính trị Quốc gia. Triandis, H. (1988). Collectivism v. individualism: A reconceptualisation of a basic concept in cross-cultural social psychology. In Cross-cultural studies of personality, attitudes and cognition (pp. 60-95). Palgrave Macmillan, London. Trịnh Duy Luân. (2008). Biến đổi tâm lý – xã hội của cộng đồng dân cư Đà Nẵng dưới tác động của quá trình đô thị hóa. Tạp chí Xã hội học, số 1 (101), 8.
File đính kèm:
- bien_doi_ve_tinh_cong_dong_cua_nguoi_dan_da_nang_trong_qua_t.pdf