Bàn thêm về phân loại văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945
TÓM TẮT
Việc phân loại văn xuôi Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX thành các nhóm truyện từ trước đến nay đã
được các nhà lý thuyết thử nghiệm khá nhiều và hướng tới mục đích có thể chấp nhận được. Trong
đó, đương nhiên tiêu chí phân loại là yếu tố căn cốt nhất. Một số tiêu chí đã được vận dụng khá
phổ biến như: thi pháp thể loại, phương pháp sáng tác, phạm vi hiện thực được phản ánh trong tác
phẩm (đề tài), sự kết hợp giữa thể loại văn học với các loại hình nghệ thuật khác (âm nhạc, hội
họa, kiến trúc.). Chúng tôi thử nghiệm phân loại văn xuôi theo nhóm truyện kể dựa trên nguyên
tắc tổ chức sự kiện.
i kịch và trào phúng. Về khái niệm “mô hình”, trong thực tế có nhiều cách quan niệm. Mô hình là vật cùng hình dạng được thu nhỏ để mô phỏng vật thật; là cái được tạo ra để tái tạo lại như thế; là một kiểu mẫu; hoặc “là hình thức diễn đạt hết sức ngắn gọn theo một ngôn ngữ nào đó các đặc trưng chủ yếu của một đối tượng, để nghiên cứu đối tượng ấy” [2; 638]. Song, trong văn chương, nếu có vận dụng khái niệm này thì cũng chỉ là vận dụng một cách tương đối, khác với trong sản xuất công nghệ. Công nghệ đòi hỏi sự rập khuôn đến từng chi tiết, còn ở văn chương, sự thống nhất giữa các hiện tượng cùng mô hình chỉ thể hiện ở những đặc trưng cơ bản và ở cấp độ cấu trúc chứ không ở mọi chi tiết. Nói mô hình truyện trong văn xuôi Việt Nam 1930 – 1945 chính là nói đặc điểm văn xuôi Việt Nam 1930 – 1945. Đúng hơn, mô hình là một cách gọi cụ thể về các đặc điểm. Nếu đặc điểm là một khái niệm trung tính có nghĩa là nét khác biệt thì khái niệm mô hình lại có khả năng gợi ra tính lặp lại ở cấp độ cấu trúc tác phẩm và quy luật vận động thống nhất đặc thù của các tác phẩm văn xuôi 1930 – 1945. Nó cũng có nghĩa loại trừ những đặc điểm có tính cá thể, không phổ biến ở các tác phẩm cũng như ở từng tác giả, đồng thời thể hiện thái độ đánh giá không cao về trình độ nghệ thuật của các hiện tượng văn học này. 1. Mô hình truyện lãng mạn: Bức tranh thế giới trong mỗi tác phẩm văn xuôi thuộc mô hình truyện này được tổ chức trên cơ sở tương quan của những cặp đối lập cơ bản như “trong – ngoài”, “ánh sáng – bóng tối” trong xung đột giữa cái tôi cá nhân và xã hội cũ (kiểu Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Nửa chừng xuân, Đời mưa gió, Thoát ly, Thừa tự của các tiểu thuyết gia Tự lực văn đoàn), giữa con người và thiên nhiên (kiểu truyện đường rừng như Tiếng gọi của rừng thẳm, Suối đàn, Mọi rợ của Lan Khai; Vàng và máu, Gió trăng ngàn của Thế Lữ, Thần hổ, Ai hát giữa rừng khuya của TchyA, Kòn Trô, Răng Sa Mát của Lý Văn Sâm, Trường đời, Trận đời, Tôi là mẹ của Lê Văn Trương)... Nhân vật trung tâm của các xung đột này là những con người thường mang những “sứ mệnh cao cả” và cũng thường là người “chiến thắng”. Trong văn xuôi Tự lực văn đoàn, để bảo vệ tự do của cá nhân, cổ xúy cho phong trào Âu hóa trẻ trung, sôi nổi, văn minh, các nhân vật phải tuyên chiến với cả một nền tảng luân lí, đạo đức của xã hội phong kiến cũ. Họ có thể đau thương, mất mát nhưng cảm hứng chung vẫn là niềm tin chiến thắng, cởi trói và tự do về tinh thần, tâm tưởng như Loan, Dũng (Đoạn tuyệt), Mai (Nửa chừng xuân), Tuyết (Đời mưa gió)... Phùng Quý Sơn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 141 - 145 144 Với loại truyện đường rừng, những thể nghiệm ban đầu, nhìn chung, mảng truyện này trước cách mạng đã có những thành công nhất định. Nó đã phản ánh chân thực, rõ nét đời sống con người trong mối quan hệ với thiên nhiên. Con người tìm về thiên nhiên là tìm về với bản thể tự nhiên thiêng liêng nhất của mình. Tiếng gọi của thiên nhiên làm cho con người “ở chốn này, người ta quên hết, quên hết để mà vui” ... “để họ bỗng thấy mình lâng lâng như đã rũ sạch được hết bụi trần”. Dưới ngòi bút của mình, các nhà văn đường rừng đã viết lên những “bản tình ca bất tận của thiên nhiên ban tặng con người”, đã đi vào “mọi ngõ ngách suối khe, đến từng ngọn cỏ, lá cây, nhị hoa, tiếng hót của vượn chim muôn loài, trong đó sâu lắng nhất là tâm trạng của con người trước thiên nhiên hoang dã và tình người muôn điệu như cuộc sống vẫn hằng sinh tồn” [4]. 2. Mô hình truyện bi kịch: Nguyên tắc xây dựng xung đột để kiến tạo bức tranh thế giới của nhóm truyện này là dựa trên tổ chức các sự kiện đối lập như “trên cao – dưới thấp”, “thống trị - bị trị’ trong xung đột giai cấp, xã hội (kiểu Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Giông tố của Vũ Trọng Phụng)...; đối lập giữa “giàu – nghèo”, “no – đói”... (kiểu Sống mòn, Đời thừa, Trăng sáng của Nam Cao). Nhân vật trung tâm của mô hình truyện bi kịch là nạn nhân của những hoàn cảnh. Họ hoặc bị giai cấp thống trị đè nén, áp bức bóc lột, bị đẩy đến bước đường cùng lâm vào những tấn thảm kịch đến mức phá sản, tương lai mịt mùng đen tối: anh Pha bị bọn lính nhà Nghị Lại “trói gô lại, khênh anh đi” (Bước đường cùng), Chị Dậu “vùng chạy ra ngoài sân, giữa lúc trời tối đen như mực và như cái tiền đồ của chị” (Tắt đèn), Chí Phèo “mắt hắn trợn ngược. Mồm hắn ngáp ngáp, muốn nói nhưng không ra tiếng. Ở cổ hắn, thỉnh thoảng máu vẫn còn ứa ra” (Chí Phèo)... Hoặc bi kịch của họ do hoàn cảnh xã hội, cuộc sống “ghì sát đất” trong nghèo đói. Nhân vật của dạng bi kịch thứ hai này thường là những con người giàu suy nghĩ, nhận thức. Họ ôm những hoài bão, lý tưởng hay phụng sự một “trách nhiệm lương tâm cao cả” do không chịu khuất phục hoàn cảnh mà lâm vào những bi kịch đầy xót xa – bi kịch của những con người tự ý thức, bi kịch nội tâm. Nếu như Thứ, Điền, Hộ cứ thỏa sức vẫy vùng, nhẹ gánh tang bồng thì có lẽ họ sẽ đạt được ước mơ của mình. Nhưng cái tạng “giàu tình thương”, “giàu lòng nhân ái” khiến họ bị hệ lụy. Ngay Lão Hạc, một “lão nông tri điền” cũng biết chọn cái chết dù đớn đau, tủi nhục để giữ trọn thiên lương để vợ con không xấu hổ, thất vọng về lão. Bằng hệ thống ngôn từ giàu nhựa sống, giọng điệu cảm thương, tinh thần nhân đạo sâu sắc, các nhà văn đã dẫn người đọc đến những cái kết đầy ám ảnh, day dứt về những bi kịch cuộc đời trong từng truyện. 3. Mô hình truyện trào phúng: Truyện được xây dựng trên cơ sở các cặp đối lập “nội dung – hình thức” “bản chất – hiện tượng” “tất nhiên – ngẫu nhiên” “logic – phi logic” trong xung đột xã hội (kiểu Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, Hai cái bụng, Răng con chó của nhà tư sản, Tinh thần thể dục, Xin chữ cụ Nghè...của Nguyễn Công Hoan). Truyện Hai cái bụng, tác giả xây dựng trên cơ sở đối lập giữa hai sự vật khác nhau về bản chất, kết hợp với cường điệu, phóng đại cả hai bản chất đó đến mức quá đáng để bật ra tiếng cười. Phần đầu là tình cảnh thằng bé ăn mày lang thang, đói rách. Phần sau là một bà béo quá đến nỗi “cổ rụt, má chảy, bụng xệ” đã mời nhiều loại thầy thuốc mà bệnh vẫn chưa khỏi. Vì hôm đi ăn cỗ cưới bà ăn quá nhiều bóng, mực, long tu... nên đến nay, bụng vẫn cứ bình bịch, không đói cho. Nhân vật xuất hiện trước mặt người đọc ở hai tình trạng: kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra. Trong Răng con chó của nhà tư sản thì tiếng cười bật lên từ sự vạch rõ mâu thuẫn trong một con người, sự đối lập giữa cái bề ngoài giàu sang và tâm địa độc ác của một thằng tư sản bên cạnh một bản chất khác tức là người ăn mày đói khát, rách dưới đến quá mức. Tiếng cười còn trở lên dồn dập, liên hoàn ở nghệ thuật tổ chức tầng tầng lớp lớp các sự kiện đối lập trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng. Ở đối lập về “nội dung – hình thức” thì còn gì vô lý hơn một thằng vô lại, vô học như Xuân tóc đỏ lại là một đốc tờ, triết gia, thi sĩ, nhà cải cách xã hội, anh hùng cứu quốc; một mụ me tây dâm ô đến Phùng Quý Sơn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 141 - 145 145 như Phó Đoan mà lại được sắc ban “tiết hạnh khả phong”... Đối lập giữa “ngẫu nhiên – tất nhiên” ở chỗ là ngẫu nhiên Xuân có “số đỏ” nhưng “tất nhiên” lại ở chỗ, nếu thằng Xuân không dâm thì làm sao lọt vào mắt bà Phó Đoan? Nếu nó không thạo nghề quảng cáo thuốc lậu, không có chất liều lĩnh của thằng vô giáo dục thì làm sao có được thành công ở tiệm Âu hóa?... Đối lập giữa “hiện tượng – bản chất” còn gì hài hước hơn “hạnh phúc của một tang gia”? Cách tổ chức truyện trên cơ sở những đối lập cơ bản như thế các nhà văn trào phúng đã xây dựng được nhiều hình tượng nghệ thuật độc đáo với mục đích cao cả khiến cho con người, xã hội thêm nhân văn hơn. KẾT LUẬN - Cách phân chia mô hình truyện theo nguyên tắc tổ chức văn bản là những khái quát có tính loại hình trên những lý lẽ khả thủ nhưng không thể toàn diện và bao hàm hết các hiện tượng văn học đặc sắc, phong cách sáng tác độc đáo trong một thời đại văn học phát triển rực rỡ nhất của lịch sử văn học dân tộc. - Mỗi tiêu chí để phân loại văn xuôi đều xuất phát từ cơ sở lý thuyết và đã được kiểm chứng. Không có lý thuyết nào là toàn diện, giữa chúng có sự giao thoa, bổ khuyết nhằm trang bị kiến thức công cụ giúp cho người đọc tìm được giá trị thẩm mỹ đích thực của tác các phẩm văn học. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới. [2]. Hoàng Phê (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học. [3]. Trần Đình Sử (2008), Tự sự học - một số vấn đề lí luận và lịch sử (phần 2), Nxb ĐHSP Hà Nội. [4]. Nguyễn Thanh Trường (2006), Một vài đặc điểm của truyện viết về miền núi giai đoạn 1930- 1945, Tạp chí Khoa học, Số 5, ĐHSP Hà Nội. [5]. hoa/goc-nhin-van-hoa/3529-ket-cau-tac-pham- nghe-thuat-ngon-tu-ky-2.html. [6]. R.Wellek và A.Warren (2009), Lí luận văn học, Nxb Văn học. SUMMARY DISCUSSING ABOUT VIETNAM’S PROSE CLASSIFICATION IN THE PERIOD OF 1930 – 1945 Phung Quy Son* Lang Son College of Education Vietnam’s prose classification in the first half of the twentieth century into story groups has been tested by theoreticians several times and aims to be acceptable. Among them, the classifiable criterion is the main factor. A number of criteria popularly used such as: poetics genre, writing methods, realistic range is reflected in the work (theme), and combination of literary genres and different types of arts (music, painting, architecture, etc.). We test classifying prose into story groups based on the principle of event organization. Key words: classifying prose, story groups, event organization. Ngày nhận bài: 05/9/2012, ngày phản biện: 16/10/2012, ngày duyệt đăng:12/11/2012 * Tel: 0982 339388, Email: quysonls@gmail.com
File đính kèm:
- ban_them_ve_phan_loai_van_xuoi_viet_nam_giai_doan_1930_1945.pdf