Bài giảng Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin (Phần I) - Lê Hữu Ái
Trong triết học Ấn Độ biểu hiện rõ nét nhất của tư tưởng biện chứng là
triết học Phật giáo với các phạm trù như: “vô ngã”, “vô thường”, “nhân
duyên”
Thời cổ đại Hy Lạp, một số nhà triết học duy tâm (Platon) coi phép biện
chứng là nghệ thuật tranh luận để tìm ra chân lý. Arixtôt đồng nhất phép biện
chứng với lôgíc học. Một số nhà triết học duy vật có tư tưởng biện chứng về
sự vật (biện chứng khách quan). Hêraclit coi sự biến đổi của thế giới như một
dòng chảy. Ông nói: “Mọi vật đều trôi đi, mọi vật đều biến đổi”. “Người ta
không thể tắm được hai lần trong cùng một dòng sông”.
Phép biện chứng chất phác thời cổ đại có đặc điểm là: Nhận thức đúng
về tính biện chứng của thế giới nhưng không phải dựa trên thành tựu của khoa
học mà bằng trực kiến thiên tài, bằng trực quan chất phác, là kết quả của sự
quan sát trực tiếp. Do đó, chưa đạt tới trình độ phân tích giới tự nhiên, chưa
chứng minh được mối liên hệ phổ biến nội tại của giới tự nhiên.
Từ nửa cuối thế kỷ XV, khoa học tự nhiên bắt đầu phát triển mạnh, đi
vào nghiên cứu từng yếu tố riêng biệt của giới tự nhiên dẫn đến sự ra đời của
phương pháp siêu hình và phương pháp này trở thành thống trị trong tư duy
triết học và nghiên cứu khoa học vào thế kỷ XVIII.
Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức được khởi đầu từ Cantơ và hoàn
thiện ở hệt thống triết học của G.Hêghen.
Triết học cổ điển Đức đã trình bày những tư tưởng cơ bản nhất của phép
biện chứng duy tâm. Tính duy tâm trong triết học của G.Hêghen được biểu
hiện ở chỗ, ông coi phép biện chứng là quá trình phát triển khởi đầu của “ý
niệm tuyệt đối”, coi biện chứng chủ quan là cơ sở của biện chứng khách quan.
Ông cho rằng “ý niệm tuyệt đối” là điểm khởi đầu của tồn tại, tự “tha hóa”
thành giới tự nhiên và trở về với bản thân nó trong tồn tại tinh thần. Tinh
thần, tư tưởng, ý niệm tuyệt đối là cái có trước, thế giới hiện thực chỉ là bản
sao chép của ý niệm.
n những sai lầm trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. b. Bản chất của con người Theo C.Mác, “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”(1). Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã có nhiều quan điểm khác nhau và bản chất, “bản tính người” của con người song về cơ bản những quan niệm đó đều mang tính phiến diện, trừu tượng và duy tâm thần bí, tuyệt đối hóa phương diện tự nhiên của con người, xem nhẹ việc lý giải con người từ phương diện lịch sử xã hội. Quan điểm của C.Mác đã khắc phục được hạn chế của quan điểm duy vật siêu hình về con người, trong khi thừa nhận bản tính tự nhiên của con người còn lý giải con người từ giác độ các quan hệ lịch sử xã hội, từ đó phát hiện ra bản tính xã hội của nó, hơn nữa chính bản tính xã hội của con người là phương diện bản chất nhất của con người, là cía phân biệt con người với các tồn tại khác của giới tự nhiên. Năng lực sáng tạo lịch sử của con người và các điều kiện phát huy năng lực sáng tạo của con người: Con người làm ra lịch sử của chính mình. Theo quan điểm duy vật biện chứng về bản chất xã hội của con người thì sự hình thành và phát triển của con người cùng những khả năng sáng tạo lịch sử của nó là xuất phát từ sự hình thành và phát triển của những quan hệ xã hội của nó trong lịch sử., khi những quan hệ này thay đổi thì cũng có sự thay đổi về bản chất của con (1) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.11. Tập bài giảng: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin --------------------------------------------------------------------------------------------- --------------- - 89 - người. Vì vậy, sự giải phóng bản chất con người cần phải hướng vào sự giải phóng những quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội của nó, thông qua đó mà phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của con người. Không có con người phi lịch sử mà trái lại luôn gắn với điều kiện hoàn cảnh lịch sử nhất định. Con người là sản phẩm của lịch sử, lịch sử sáng tạo ra con người trong chừng mực nào thì con người lại sáng tạo ra lịch sử trong chừng mực đó. Đây là biện chứng của mối quan hệ giữa con người – chủ thể của lịch sử với chính lịch sử do nó tạo ra và đồng thời lại bị quy định bởi chính lịch sử đó. Với tư cách là thực thể xã hội, con người trong hoạt động thực tiễn tác động vào giới tự nhiên, cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu của mình thì đồng thời con người cũng sáng tạo ra lịch sử của chính nó, thực hiện sự phát triển của lịch sử đó. Ý nghĩa phương pháp luận: Từ quan niệm khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người, có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận quan trọng sau đây: Một là, để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người phải căn cứ cả vào phương diện tự nhiên và phương diện xã hội, trong đó vấn đề có tính quyết định là phương diện bản tính xã hội của nó, từ những quan hệ kinh tế xã hội của nó. Hai là, động lực cơ bản của tiến bộ và phát triển của xã hội là năng lực sáng tạo lịch sử của con người, vì vậy phát huy năng lực sáng tạo của mỗi con người là phát huy nguồn động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội. Ba là, sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của nó phải hướng vào việc giải phóng những quan hệ kinh tế xã hội. Trên cơ sở đó có thể khẳng định giá trị căn bản nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa là ở mục tiêu xóa bỏ triệt để các quan hệ kinh tế xã hội áp bức, bóc lột nhằm giải phóng con người, phát huy cao nhất năng lực sáng tạo của con người, đưa con người tới sự phát triển tự do và toàn diện. 2. Khái niệm quần chúng nhân dân và vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân. Tập bài giảng: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin --------------------------------------------------------------------------------------------- --------------- - 90 - a. Khái niệm quần chúng nhân dân Quần chúng nhân dân là một cộng đồng liên kết những con người trong xã hội có tổ chức, có lãnh đạo của những cá nhân hay tổ chức chính trị xã hội nhất định nhằm giải quyết các nhiệm vụ lịch sử trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa của xã hội. Lực lượng cơ bản tạo thành quần chúng nhân dân bao gồm: - Những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần, đó là hạt nhân cơ bản trong cộng đồng quần chúng nhân dân. - Bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị, áp bức, bóc lột đối kháng với cộng đồng nhân dân. - Các giai cấp, tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội thông qua hoạt động của mình trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Quần chúng nhân dân không phải là một cộng đồng bất biến mà trái lại nó thay đổi cùng với sự biến đổi của những nhiệm vụ lịch sử ở mối thời đại, mỗi giai đoạn phát triển nhất định. Tuy nhiên, lực lượng cơ bản nhất của mỗi cộng đồng nhân dân chính là những người lao động; ngoài ra, tùy theo mối điều kiện lịch sử nhất định còn bao gồm những lực lượng giai cấp và tầng lớp xã hội khác. b. Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân và vai trò của cá nhân trong lịch sử Các nhà tư tưởng trước C.Mác đều không nhận thức đúng vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân. Theo quan điểm duy vật lịch sử, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo lịch sử và là lực lượng quyết định sự phát triển lịch sử, do đó lịch sử trước hết và căn bản là lịch sử hoạt động của quần chúng nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Vai trò chủ thể sáng tạo lịch sử, quyết định tiến trình phát triển lịch sử của quần chúng nhân dân được thể hiện ở các mặt sau: Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của mọi xã hội, trực tiếp tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của con người và xã hội. Tập bài giảng: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin --------------------------------------------------------------------------------------------- --------------- - 91 - Thứ hai, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị tinh thần của xã hội. Hoạt động của quần chúng nhân dân là cơ sở hiện thực và là cội nguồn phát sinh những sáng tạo văn hóa tinh thần của xã hội; mọi giá trị sáng tạo tinh thần dù qua phương thức nào thì cuối cùng cũng là để phục vụ hoạt động của quần chúng nhân dân, chỉ có ý nghĩa hiện thực khi được vật chất hóa bởi hoạt động thực tiễn của nhân dân. Thứ ba, quần chúng nhân dân là lực lượng và động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng và cải cách trong lịch sử. Cách mạng xã hội hoặc cải cách xã hội chỉ có thể thành công nếu xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân thực hiện. Với ý nghĩa đó có thể nói: “cách mạng là ngày hội của quần chúng”, nhờ đó làm cho lịch sử tiến được những bước dài. Vai trò của cá nhân, vĩ nhân đối với sự phát triển của lịch sử: Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân không thể tách rời vai trò cụ thể của mỗi cá nhân, nhất là cá nhân là thủ lĩnh hay lãnh tụ của nhân dân. Cá nhân và vai trò của cá nhân Cá nhân là khái niệm dùng để chỉ mỗi con người cụ thể trong một cộng đồng xã hội nhất định và được phân biệt với những con người khác thông qua tính đơn nhất và tính phổ biến của nó. Theo quan niệm đó, mỗi cá nhân là một chỉnh thể thống nhất, vừa mang tính cá biệt vừa mang tính phổ biến, là chủ thể của lao động, của mọi quan hệ xã hội và của nhận thức nhằm thực hiện chức năng cá nhân và chức năng xã hội trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử. Mỗi cá nhân, tùy theo vị trí, chức năng, vai trò và năng lực sáng tạo cụ thể của họ mà có thể tham gia vào quá trình sáng tạo ra lịch sử của cộng đồng nhân dân. Theo ý nghĩa đó, mỗi cá nhân của cộng đồng nhân dân đều indấu ấn của mình vào quá trình sáng tạo ra lịch sử, dù mức độ và phạm vi có thể khác nhau. Lãnh tụ và vai trò của lãnh tụ: Lãnh tụ là những cá nhân kiệt xuất do phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân tạo nên, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân. Để trở thành lãnh tụ của nhân dân, được quần chúng nhân dân tín nhiệm, lãnh tụ phải là người có các phẩm chất sau: Tập bài giảng: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin --------------------------------------------------------------------------------------------- --------------- - 92 - - Có tri thức khoa học uyên bác, nắm được xu thế vận động, phát triển của lịch sử. - Có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhân dân. - Gắn bó mật thiết với nhân dân, hy sinh vì lợi ích của nhân dân. Lãnh tụ nhất là lãnh tụ ở tầm vĩ nhân có vai trò to lớn trong việc tập hợp, tổ chức, chỉ đạo phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân. Lãnh tụ xuất hiện và thực hiện vai trò của mình từ trong phong trào của quần chúng nhân dân. Trong hoạt động thực tiễn cần có quan điểm biện chứng về vai trò của quần chúng nhân dân và vai trò của cá nhân. Không được tuyệt đối hóa vai trò của quần chúng nhân dân cũng như không được tuyệt đối hóa vai trò của cá nhân, của lãnh tụ. Ý nghĩa phương pháp luận.: Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân và vai trò của các cá nhân đối với tiến trình lịch sử đã cung cấp một phương pháp luận khoa học quan trọng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn. Thứ nhất, lý giải một cách khoa học về vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân, chống những quan điểm sai trái của chủ nghĩa duy tâm đồng thời đem lại phương pháp luận khoa học trong việc nghiên cứu, đánh giá vai trò của cá nhân, của vĩ nhân, của lãnh tụ trong cộng đồng xã hội. Thứ hai, cung cấp phương pháp luận khoa học để các đảng cộng sản phân tích các lực lượng xã hội, tổ chức xây dựng lực lượng quần chúng nhân dân trong công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, tập hợp đông đảo lực lượng quần chúng nhân dân để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
File đính kèm:
- bai_giang_nhung_nguyen_ly_co_ban_cua_chu_nghia_mac_lenin_pha.pdf