Ảnh hưởng của dữ liệu lớn đến nghề nghiệp kế toán

Bài viết tập trung chủ yếu vào sự phát triển của báo cáo doanh nghiệp trong thời đại kỹ thuật số, về Internet và công nghệ hiện đại nói chung và dữ liệu lớn nói riêng. Bên cạnh đó, tổng hợp và phân tích các nghiên cứu trước đây về tác động của dữ liệu lớn đến nghề nghiệp kế toán. Thảo luận các kết quả nghiên cứu trước đây về vấn đề này và đưa ra các ý tưởng cho

nghiên cứu trong tương lai.

pdf6 trang | Chuyên mục: Kiểm Toán Căn Bản | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 565 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Ảnh hưởng của dữ liệu lớn đến nghề nghiệp kế toán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
lyi và cộng sự (2015) cho rằng dữ 
liệu lớn thay đổi căn bản thông tin của chúng ta - 
ví dụ như các tổ chức có khả năng cung cấp thông 
tin theo thời gian thực, trái ngược với kế toán tổng 
hợp và tổng hợp thông tin được cung cấp định kỳ. 
Warren và cộng sự (2015) chủ yếu xem xét việc sử 
dụng dữ liệu lớn trong bối cảnh các quy trình kiểm 
soát nội bộ, tạo ra mối liên hệ giữa hành vi và mục 
tiêu có thể dẫn đến các biện pháp thực hiện mới. 
Krahel và Titera (2015) cho rằng các chuẩn mực 
kế toán không phản ánh sự phát triển của dữ liệu 
lớn vì các báo cáo tài chính dựa trên GAAP vẫn 
chưa đủ mạnh và các tác giả cho rằng những thay 
đổi này sẽ được thay thế bởi dữ liệu thô mà người 
dùng cuối có thể tự động trích xuất và xem xét. Các 
chuẩn mực báo cáo tài chính là cần thiết để duy trì 
khía cạnh so sánh nhưng cần tập trung vào các dữ 
liệu cơ bản cần cung cấp về nội dung và thời gian 
(Moffitt và Vasarhelyi, 2013).
Bhimani và Willcocks (2014) xem xét việc số 
hóa các hoạt động kế toán có tiềm năng mang lại 
lợi ích, tuy nhiên lo ngại rằng nhiệm vụ của kế toán 
trong việc làm cho dữ liệu có thể hiểu được thông 
qua kiến thức không thể chuyển thành thực tiễn 
và dữ liệu đó sẽ mang lại cái nhìn sâu sắc nếu chịu 
phân tích kỹ càng. Trong thời đại kỹ thuật số, các 
mô hình kinh doanh mới xuất hiện dẫn đến các 
31NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 121 - tháng 11/2017
thực tiễn kế toán mới, không còn giả định mối 
quan hệ tuần tự giữa chiến lược, cấu trúc và kế 
toán, nhưng là sự kết hợp của ba mô hình đó có 
thể đối phó với dữ liệu lớn có cấu trúc và không 
có cấu trúc liên quan đến khách hàng và xu hướng 
thị trường. Các hoạt động kế toán cần được điều 
chỉnh để thu thập dữ liệu, và các báo cáo tài chính 
sẽ cần phản ánh các sự kiện không có cấu trúc liên 
quan đến khách hàng ảnh hưởng đến việc tạo ra giá 
trị kinh tế (Bhimani và Willcocks, 2014). Với lượng 
dữ liệu khổng lồ, việc thu thập dữ liệu trong tương 
lai sẽ mang tính tạm thời chứ không phải là tĩnh 
và được lưu trữ, và do internet mà các nguồn dữ 
liệu mới sẽ được thực hiện trong hệ thống cần phải 
được cung cấp trong hệ thống thông tin kế toán của 
một tổ chức (Krahel và Vasarhelyi, 2014). Payne 
(2014) cho rằng các công ty thường được khuyên 
tham gia vào các dữ liệu, phân tích và hình ảnh 
lớn, tuy nhiên trong thực tế, khó có thể thay đổi hệ 
thống kế toán và kiểm soát hiện tại vì các hệ thống 
này thường bị phân mảnh, dựa vào các mục nhập 
thủ công và thường chỉ được biết đến với một vài 
thành viên có kinh nghiệm của tổ chức mà không 
thể dễ dàng nuôi dưỡng kiến thức hiện có vào hệ 
thống kế toán. Tuy nhiên, tác giả thừa nhận rằng 
kế toán cần tham gia vào các công nghệ mới, ví 
dụ: bằng cách áp dụng các công cụ phân tích mới, 
kế toán đám mây hoặc tương tác truyền thông xã 
hội, sự chú ý về thời gian và liên tục (Payne, 2014). 
Quattrone (2016) xem xét việc số hóa tài khoản 
liên tục là vấn đề, vì ông quan tâm đến việc mất 
liên lạc và tập trung vào việc phân tích dữ liệu, “cơ 
sở dữ liệu và mô hình thống kê biết cá nhân tốt hơn 
so với cá nhân khác và có thể dự đoán mong muốn 
và hành động trong tương lai. Theo quan điểm này, 
kế toán dẫn đến các hành động giao tiếp tác động 
đến quá trình ra quyết định, và quá trình truyền 
thông quan trọng hơn con số thực trên báo cáo 
(Quattrone, 2016), điều này trái ngược với phân 
tích dữ liệu tập trung vào việc cung cấp nhiều nhất 
số thực. Quattrone (2016) đưa ra câu hỏi làm thế 
nào có thể đảo ngược quá trình số hóa. Cho dù 
quá trình này có thể được đảo ngược có lẽ là một 
câu hỏi thực tế hơn để yêu cầu, cho rằng số hóa đã 
thâm nhập tất cả các lớp của xã hội và các tổ chức. 
Tuy nhiên, quan điểm cho rằng công nghệ có thể là 
vấn đề không phải là không phổ biến, và nghịch lý 
(Arnold, 2003) như sẽ được thảo luận trong phần 
tiếp theo.
4. Nghịch lý của dữ liệu lớn
Nhiều người thừa nhận tiềm năng tích cực 
nhưng cũng có quan điểm phê bình về việc kết hợp 
các dữ liệu lớn vào kế toán và báo cáo của công 
ty. Ngoài việc điều tra nhận thức về dữ liệu lớn và 
báo cáo của công ty, sự sẵn sàng kết hợp các dữ 
liệu lớn trong bối cảnh chuyên nghiệp của các kế 
toán được phản ánh trong trạng thái dữ liệu đối 
với báo cáo của công ty và vai trò của kế toán, bài 
viết cũng nhằm mục đích phân tích những yếu tố 
nghịch lý vốn có của dữ liệu lớn và báo cáo của 
công ty. Arnold (2003) giới thiệu khái niệm khuôn 
mặt Janus (Janus-face) về công nghệ, khuôn mặt 
của nhân vật thần thoại La Mã nhìn theo hai hướng 
cùng một lúc. Khái niệm này hàm ý rằng công nghệ 
có tính chất “mỉa mai và nghịch lý” (Arnold, 2003, 
trang 231), và gợi ý rằng cùng một công nghệ có 
thể phát triển theo hai hướng khác nhau (Arnold, 
2003). Bản chất nghịch lý này không được xây dựng 
trong sự phát triển công nghệ mà đúng hơn là hiệu 
quả phục hồi các nhu cầu và kết quả trong bối cảnh 
xã hội học và cần được xem xét trong khung phân 
tích (Arnold, 2003). Arnold (2003) sử dụng khái 
niệm của Heidegger về thế giới đời sống bị công 
nghệ giải quyết nhằm cung cấp một lời giải thích 
về lý do tại sao công cụ hợp lý được tạo ra theo con 
người sẽ thực hiện nghịch lý. Heidegger gợi ý rằng 
công nghệ không chỉ đơn thuần là một công cụ mà 
còn có khả năng thay đổi cách chúng ta nhận thức 
thế giới, bởi vì thế giới của chúng ta bị công nghệ 
bẻ cong theo cách không rõ ràng (Arnold, 2003; 
Jarvenpaa và Lang, 2005).
Arnold (2003) và Jarvenpaa và Lang (2005) đều 
xác định một số nghịch lý liên quan đến công nghệ 
di động. ví dụ như cuộc trò chuyện điện thoại di 
động thường là công cộng nhưng chính điện thoại 
là một sở hữu riêng, nghĩa là điện thoại báo hiệu 
rằng người ta luôn có nhu cầu và bận rộn nhưng 
cũng có sẵn, sản xuất và tiêu thụ, nghĩa là điện 
thoại di động cho phép người sử dụng có năng 
suất cao để quản lý thời gian hiệu quả nhưng đồng 
32
CAÙCH MAÏNG COÂNG NGHIEÄP 4.0 VAØ NHÖÕNG TAÙC ÑOÄNG TÔÙI NGAØNH NGHEÀ KEÁ TOAÙN - KIEÅM TOAÙN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 121 - tháng 11/2017
thời tiêu tốn tài nguyên và thời gian. Jarvenpaa và 
Lang (2005), dựa trên những gợi ý của Arnold, đề 
xuất tính xác thực, tức là chịu trách nhiệm về thời 
gian của mình mà còn phải liên tục tham gia vào 
các thiết bị di động, độc lập với sự phụ thuộc, tức 
là điện thoại di động quản lý nhiều nhiệm vụ cần 
phải đáp ứng và tương tác, đáp ứng nhu cầu và tạo 
ra các nhu cầu, tức là các lựa chọn và ứng dụng 
mới đáp ứng nhu cầu, đồng thời tạo ra một năng 
lực mới, năng lực và không đủ năng lực, ví dụ như 
điện thoại di động là những công cụ lập kế hoạch 
hoàn hảo về mặt kỹ thuật nhưng người dùng thích 
ứng nhiều hơn do kết nối dễ dàng với người khác, 
dễ dàng tham gia và loại bỏ, tức là có khả năng liên 
tục liên lạc với người khác nhưng cùng lúc muốn 
được chia sẻ công cộng. 
5. kết luận
Bài viết đã tổng hợp các nghiên cứu về báo cáo 
của công ty và dữ liệu lớn, sự sẵn sàng để kết hợp 
dữ liệu lớn trong bối cảnh công việc của kế toán, 
vai trò dự kiến của kế toán trong bối cảnh này và 
những nghịch lý áp dụng các khái niệm công nghệ 
mới. Bên cạnh đó, các hàm ý cho tổ chức và xã hội. 
Kế toán phải tham gia với các bộ phận khác nhau 
của tổ chức và phải cùng nhau chủ động về các dữ 
liệu lớn và báo cáo của công ty. Vì kế toán cung 
cấp số lượng đáng kể dữ liệu cho các bên liên quan 
và cũng như thu thập và phân tích dữ liệu lớn, kế 
toán viên cần liên kết với các nhà khoa học dữ liệu 
để cùng nhau cho ra kết quả có ý nghĩa. Hơn nữa, 
cung cấp dữ liệu và hiểu biết sâu sắc hơn giúp các 
tổ chức có thể giảm bớt sự không đối xứng thông 
tin, có thể có tác động tích cực đến sự tin tưởng của 
các nhà đầu tư trong thực tiễn kế toán.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Arnold, M. (2003) On the phenomenology 
of technology: the ‘Janus-faces’ of mobile 
phones, Information and Organization, 
Vol. 13, pp. 231 - 256.
2. Chen, H., Chiang, R. And Storey, V. (2012), 
Business intelligence and analytics: from big 
data to big impact, MIS Quarterly, Vol. 36, 
No. 4, pp. 1165 – 1188.
3. Cisco White Paper (2015), The Internet 
of Things, https://www.cisco.com/.../iot_
IBSG_0411FINAL.pdf.
4. Dimitriu, O. and Matei, M. (2015), Cloud 
Accounting: A New Business Model in a 
Challenging Context, Procedia Economics 
and Finance, Vol. 32, pp. 665 - 671.
5. Gandomi, A. And Haidar, M. (2015), 
Beyond the hype: Big data concepts, 
methods and analytics, International 
journal of Information Management Vol. 
35, No. 2, pp. 137 – 144.
6. Griffin, P. and Wright, A. (2015), 
Commentaries on Big Data’s Importance 
for Accounting and Auditing, Accounting 
Horizons, Vol. 29, No. 2, pp. 377 - 379.
7. Hopper, T. and Powell, A. (1985), Making 
Sense Of Research Into The Organizational 
And Social Aspects Of Management 
Accounting: A Review Of Its Underlying 
Assumptions, Journal of Management 
Studies, Vol. 22, pp. 429–465.
8. Jariwala, B. (2015), Give the 
Digital Natives Room to Run, 
available at: https://www.ifac.
o r g / g l o b a l - k n o w l e d g e - g a t e w a y /
finance-leadership- development/
discussion/give-digital-natives-room-run;
9. Krahel, J. and Titera, W. (2015), 
Consequences of Big Data and 
Formalization on Accounting and 
Auditing Standards, Accounting Horizons, 
Vol. 29, No. 2, pp. 409 - 422.
10. Lymer, A., Debreceny, R., Gray, G. L., and 
Rahman, A. (1999). Business reporting on 
the Internet . London: IASC.
11. Moffitt, K. and Vasarhelyi, M. (2013), AIS in 
an Age of Big Data. Journal of Information 
Systems, Vol. 27, No. 2, pp. 1-19.
12. Payne, R. (2014), Discussion of 
‘Digitisation, Big Data and the 
transformation of accounting information’ 
by Alnoor Bhimani and Leslie Willcocks, 
Accounting and Business Research. Vol. 
44, no. 4, pp. 491 - 495.
13. Warren, J., Moffitt, K. and Byrnes, P. 
(2015), How Big Data Will Change 
Accounting. Accounting Horizons, Vol. 29, 
No. 2, pp. 397-407.

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_du_lieu_lon_den_nghe_nghiep_ke_toan.pdf