Xây dựng chương trình tính toán chế độ nhiệt máy biến áp dựa trên mô hình động của IEC
Tóm tắt:
Bài báo trình bày kết quả xây dựng chương trình tính toán nhiệt độ của điểm nóng nhất và độ suy
giảm tuổi thọ của máy biến áp dựa trên mô hình động của IEC 60076-7. Chương trình tính toán
được xây dựng dựa trên mô hình tích phân về chế độ nhiệt của máy biến áp. Để xác nhận tính hợp
lệ, kết quả tính toán của chương trình được so sánh với kết quả cho trong tiêu chuẩn. Sau đó bộ
thông số mô hình nhiệt của một máy biến áp truyền tải thực tế 600MVA - 500kV với kiểu làm mát
ONAF được lựa chọn để tính toán. So sánh kết quả tính toán và dữ liệu đo cho sai lệch bé xác nhận
tính khả thi trong ứng dụng chương trình vào giám sát chế độ nhiệt của máy biến áp.
chuẩn này thường xuyên bổ sung cập nhật để hoàn thiện hơn về độ chính xác trong tính toán. Đóng góp chính của nghiên cứu này là xây dựng chương trình tính toán chế độ nhiệt dựa trên cấu trúc mô hình tiêu chuẩn được giới thiệu trong mục 2. Trong mục này, bài báo giới thiệu ứng dụng tính toán giám sát nhiệt độ điểm nóng nhất và độ suy giảm tuổi thọ cho MBA. Trong mục 3, sau khi xác nhận tính hợp lệ của chương trình, nhiệt độ lớp dầu trên của một MBA truyền tải thực tế được tính toán bằng chương trình và so sánh với dữ liệu đo thực tế. Trong quá trình tính toán, thông số của mô hình cũng được lựa chọn hợp lý để thu được kết quả với sai lệch bé nhất. Cuối cùng là một số tổng kết được đưa ra trong mục 4. 2. XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH TÍNH TOÁN DỰA TRÊN MÔ HÌNH ĐỘNG THEO TIÊU CHUẨN IEC 60076-7 2.1. Mô hình động theo tiêu chuẩn IEC 60076-7 Các phương trình vi phân mô tả quá trình truyền nhiệt tương ứng chỉ ở dạng tuyến tính trong trường hợp làm mát với dòng dầu cưỡng bức (OD). Đối với các kiểu làm mát khác (OF và ON) tốc độ tuần hoàn dầu phụ thuộc vào bản thân nhiệt độ của môi chất làm mát. TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NĂNG LƯỢNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC (ISSN: 1859 - 4557) Số 17 24 Kết quả là đối với các kiểu làm mát ON và OF, mô hình động được biểu diễn dưới dạng phương trình vi phân là phi tuyến, nghĩa là độ tăng nhiệt của lớp dầu trên và của điểm nóng nhất khi có sự tăng đột biến của dòng tải không theo quy luật hàm mũ [4]. Phương trình vi phân với ẩn là nhiệt độ của lớp dầu trên được viết dưới dạng [1]: 2 11 1 . . 1 x o or o o a dK R k R dt (1) Độ tăng nhiệt của điểm nóng nhất có thể tính dưới dạng tổng của hai thành phần: 2h1hh (2) Trong đó hai số hạng vế phải là lời giải của hai phương trình sau: 1h 1h w22hr y 21 dt d kKk (3) 2h 2h 22 o hr y 21 dt d k K1k (4) Từ đó tính được nhiệt độ của điểm nóng nhất: hoh (5) Tuổi thọ thay đổi từ thời điểm t1 đến thời điểm t2 được xác định bởi : 2 1 t t VdtL (6) với tốc độ già cỗi V được tính từ nhiệt độ của điểm nóng nhất: 273 15000 273110 15000 heV (7) Trong các phương trình (1) đến (5) thông số cần biết bao gồm: or: độ tăng nhiệt độ của dầu định mức; hr: độ tăng nhiệt độ của điểm nóng nhất định mức; k11, k21, k22: các hằng số nhiệt của mô hình; x: số mũ tương ứng độ tăng nhiệt độ dầu; y: số mũ tương ứng với độ tăng nhiệt độ của cuộn dây; o: hằng số thời gian của dầu; w: hằng số thời gian của cuộn dây; R: tỷ số tổn thất khi mang tải với dòng định mức và tổn hao không tải; Dữ liệu đầu vào là nhiệt độ môi trường a và hệ số mang tải K của MBA, đại lượng cần tính toán là nhiệt độ lớp dầu phía trên o và nhiệt độ của điểm nóng nhất h. 2.2. Xây dựng chương trình tính toán Chương trình tính toán chế độ nhiệt được thực hiện với các thông số đầu vào đã được giới thiệu trong mục 2.1. Trong thực tế, dữ liệu đo thường được lưu lại với thời gian lấy mẫu Dt cỡ vài phút. Để tính toán, các phương trình (1), (3) (4) và (6) được sai phân hóa với bước sai phân bằng Dt. Điểm khởi tạo của lưu đồ được tính theo phương trình sau: 21 (0) . 1 x o or a K R R (8) 1 210 y h hrk K (9) hr y 212h K1k0 (10) TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NĂNG LƯỢNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC (ISSN: 1859 - 4557) Số 17 25 Hình 1. Lưu đồ tính toán Dựa vào các phương trình từ (1) đến (10) có thể xây dựng được chương trình tính toán theo lưu đồ trên Hình 1. Trong đó n là số mẫu dữ liệu đầu vào (nhiệt độ môi trường và hệ số mang tải). Chương trình có thể được thực hiện bằng các phần mềm lập trình phổ biến hiện nay, ví dụ trong môi trường Matlab có thể thực hiện với file .m. Ở đó phần đầu chương trình nhập các thông số đầu vào, tính toán điểm khởi tạo, sau đó vòng lặp được thực hiện để tính toán nhiệt độ của lớp dầu trên và nhiệt độ của điểm nóng nhất. Một lựa chọn khác là xây dựng dựa trên công cụ trực quan GUI với ba bước: “Nhập dữ liệu”, “Tính toán” và “Xuất kết quả”. Trong đó, dữ liệu được nhập từ file MS Excel, tính toán dựa trên thuật toán mô tả ở trên và có thể xuất kết quả dạng bảng số hoặc dạng đồ thị như được thể hiện trên hình 2. Hình 2. Màn hình khởi tạo của chương trình (hình trên); Kết quả tính toán (hình dưới) 3. KẾT QUẢ TÍNH TOÁN 3.1. Xác nhận tính hợp lệ của chương trình Chương trình được xây dựng trong mục 2 được áp dụng tính toán cho số liệu cho trong tiêu chuẩn IEC60076-7. Kết quả chạy chương trình thu được hoàn toàn phù hợp với dữ liệu cho trong tiêu chuẩn, hình 3. Sai Đúng TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NĂNG LƯỢNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC (ISSN: 1859 - 4557) Số 17 26 Hình 3. Nhiệt độ của điểm nóng nhất và độ suy giảm tuổi thọ: tính toán theo chương trình (hình trên); dữ liệu của tiêu chuẩn IEC 60076-7 (hình dưới) 3.2. Tính toán cho máy biến áp 600 MVA, 500 kV ONAF thực tế Máy biến áp được lựa chọn có công suất 600 MVA, 500 kV với kiểu làm mát ONAF (dầu tuần hoàn tự nhiên và gió cưỡng bức). Đây là MBA thuộc nhóm có công suất trung bình và lớn. Tra cứu trong tiêu chuẩn IEC-60076-7 [1] có bộ thông số như sau: or = 59 K; hr=26 K; k11=0.5; k21=2; k22=2; x=0,8; y=1,3; o=150; w=7; dựa vào thông số của máy, tính được R = 7,74. Kết quả tính toán nhiệt độ của lớp dầu trên cho MBA 600MVA, 500kV ONAF được thể hiện trên hình 4. Có thể thấy nhiệt độ tính toán và nhiệt độ đo thực tế có độ lệch rất bé, nhỏ hơn 0,30C. Kết quả tính toán chính xác là nhờ việc lựa chọn bộ thông số của mô hình hợp lý theo khuyến nghị của tiêu chuẩn IEC và dữ liệu của nhà sản xuất. Hơn nữa thời gian lấy mẫu của dữ liệu đã đủ bé để đảm bảo độ chính xác trong tính toán. Đây đồng thời là nhược điểm trong ứng dụng khi các MBA hiện tại đều được vận hành với thời gian lấy mẫu phổ biến là 1 giờ. Tuy nhiên với sự phát triển nhanh chóng của hệ thống điều khiển giám sát ở các trạm, việc lưu trữ với thời gian lấy mẫu cỡ vài phút không phải là trở ngại lớn. Với sai lệch đủ bé có thể cho phép sử dụng kết quả tính toán để giám sát nhiệt độ của lớp dầu trên. Đồng thời, chương trình đã tính toán các đại lượng khác như nhiệt độ điểm nóng nhất và độ suy giảm tuổi thọ MBA với kết quả thể hiện trên hình 5. Điểm nóng nhất trong thực tế rất khó xác định nên kết quả tính toán về đại lượng này rất có ý nghĩa trong việc giám sát chế độ nhiệt của MBA. Hình 4. Nhiệt độ của điểm nóng nhất và độ suy giảm tuổi thọ của MBA 600MVA, 500kV ONAF Ngoài ra sau thời gian làm việc với mức độ mang tải theo thời gian khác nhau, độ suy giảm tuổi thọ hoàn toàn có thể ước lượng sơ bộ và làm số liệu tham khảo trong quá trình sử dụng máy. TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NĂNG LƯỢNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC (ISSN: 1859 - 4557) Số 17 27 Hình 5. Nhiệt độ của điểm nóng nhất và độ suy giảm tuổi thọ của MBA 600MVA, 500kV ONAF 4. KẾT LUẬN Bài báo đã trình bày một ứng dụng mô hình động dạng tích phân trong xây dựng chương trình tính toán chế độ nhiệt của MBA. Bộ thông số của mô hình được lựa chọn phù hợp trên cơ sở áp dụng khuyến nghị của IEC và tính toán theo dữ liệu của nhà sản xuất cho kết quả tính toán có sai lệch bé so với dữ liệu đo thực tế. Sau một thời gian vận hành, các thông số có thể thay đổi nên việc cập nhật thông số rất cần thiết để duy trì độ chính xác tính toán. Đây đồng thời là hướng phát triển tiếp theo của nghiên cứu này trong lĩnh vực ước lượng thông số của mô hình. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] IEC, “Tiêu chuẩn IEC 60076-7,” International Electrotechnical Commission, 2005. [2] IEEE, “ Std C57.92-1981, IEEE Guide for Loading Mineral-Oil-Immersed Power Transformers up to anh Including 100 MVA with 55ºC or 65ºC Average Winding Rise”. [3] B. Lesieutre, W. Hagman và J. Kirtley, “An improved transformer top oil temperature model for use in an on-line monitoring and diagnostic system,” IEEE Transactions on Power Delivery, tập 12, số 1, p. 249–256, 1997. [4] G. Swift, T. Molinski và W. Lehn, “A Fundamental Approach to Transformer Thermal Modelling,” IEEE transactions on power delivery, tập 16, số 2, p. 171 – 177, 2001. [5] D. Susa, M. Lehtonen và H. Nordman, “Dynamic thermal modelling of power transformers,” IEEE Transactions on Power Delivery, tập 20, số 1, p. 197–204, 2005 Giới thiệu tác giả: Tác giả Vũ Hoàng Giang tốt nghiệp đại học và nhận bằng Thạc sĩ tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội vào các năm 2002 và 2005; năm 2014 nhận bằng Tiến sĩ Kỹ thuật điện tại Trường Đại học Claude Bernard Lyon 1, Cộng hòa Pháp; nghiên cứu sinh sau Tiến sĩ tại Trường Đại học Claude Bernard Lyon 1 từ năm 2014 đến năm 2015. Hiện nay tác giả đang công tác tại Trường Đại học Điện lực. Lĩnh vực nghiên cứu: chẩn đoán hư hỏng trong máy điện, ước lượng thông số của máy điện, điều khiển máy điện và các bộ biến đổi điện tử công suất, ứng dụng của các bộ biến đổi trong lưới điện thông minh, microgrid, máy cắt điện một chiều và hệ thống bảo vệ trong lưới điện microgrid. TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NĂNG LƯỢNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC (ISSN: 1859 - 4557) Số 17 28 Tác giả Nguyễn Đăng Toản tốt nghiệp Trường Đại học Bách khoa Hà Nội năm 2001, nhận bằng Thạc sỹ năm 2003 tại AIT - Thái Lan, Tiến sĩ năm 2008 tại Grenoble - INP - Pháp chuyên ngành hệ thống điện. Tác giả hiện đang công tác tại Trường Đại học Điện lực. Lĩnh vực nghiên cứu: ổn định hệ thống điện, HVDC/FACTS, năng lượng mới. Tác giả Lê Nguyễn Thành Trung tốt nghiệp Trường Đại học Điện lực vào năm 2016. Hiện tác giả đang là học viên cao học ngành kỹ thuật điện, Trường Đại học Điện lực. Lĩnh vực nghiên cứu: điều khiển máy điện và các bộ biến đổi điện tử công suất.
File đính kèm:
- xay_dung_chuong_trinh_tinh_toan_che_do_nhiet_may_bien_ap_dua.pdf