Vật lý học động cơ bước
• Giới thiệu
• Tĩnh học
• Điều khiển nửa bước và vi bước
• Lực ma sát và vùng chết
• Động lực học
• Cộng hưởng
• Sống chung với cộng hưởng
• Vận tốc moment xoắn cản
• Vấn đề về điện từ
chết tính bằng radians S – góc bước tính bằng radians f – moment xoắn cần thiết để thắng lực ma sát h – moment xoắn giữ Điều quan trọng phải ghi chú về vùng chết là nó giới hạn độ chính xác vị trí sau cùng! Một ví dụ, khi lực ma sát nghỉ là 1/2 giá trị đỉnh moment xoắn, một động cơ bước mỗi bước 90° sẽ có vùng chết là 60°! Điều đó có nghĩa là các bước hiệu quả sẽ dao động trong khoảng 30° đến 150°, tuỳ thuộc vào rotor dừng ở đâu trong vùng chết sau mỗi bước! Sự xuất hiện của vùng chết có một ảnh hưởng rất lớn đến việc điều khiển vi bước thực tế! Nếu vùng chết rộng x°, thì việc điều khiển vi bước với độ rộng một bước nhỏ hơn x° có thể sẽ không làm cho rotor quay được một chút nào. Vì vậy, đối với các hệ thống định dùng điều khiển vi bước có độ phân giải cao, việc giảm thiểu ma sát nghỉ là rất quan trọng. Động lực học Mỗi lần bạn quay động cơ một bước, bạn di chuyển rotor khỏi vị trí cân bằng S radians. Điều này di chuyển toàn bộ đường cong được miêu tả trong hình 2.1 một khoảng cách S radians, như Hình 2.6: 7 Hình 2.6 Điều đầu tiên ghi nhận về quá trình quay một bước là giá trị ngẫu lực hiệu dụng lớn nhất đạt tại giá trị nhỏ nhất khi roto đang quay nửa đường từ bước này sang bước kế tiếp. Giá trị nhỏ nhất này xác định moment xoắn động (running torque), giá trị moment xoắn lớn nhất của động cơ có thể đạt được khi nó bước tới trước rất chậm. Đối với động cơ nam châm vĩnh cửu hai mấu thông thường với những đường cong hình sin lý tưởng của moment xoắn so với vị trí và moment xoắn giữ h, giá trị moment xoắn động sẽ là h/(20.5). Nếu động cơ được quay bằng cách cấp điện cho hai mấu cùng lúc, moment xoắn động của một động cơ nam châm vĩnh cửu hai mấu lý tưởng sẽ bằng moment xoắn giữ loại một mấu. Cũng nên ghi nhận rằng ở một tốc độ bước cao, moment xoắn động đôi khi được định nghĩa như là moment kéo ra (pull‐out torque). Nghĩa là, nó là moment xoắn lớn nhất mà động cơ có thể vượt qua để quay tải từ bước này sang bước tiếp trước khi tải bị kéo ra khỏi vị trí bước bởi lực ma sát. Một vài hướng dẫn động cơ định nghĩa một moment xoắn thứ hai là moment xoắn kéo vào (pull‐in torque). Nó là moment xoắn ma sát cực đại mà động cơ có thể vượt qua để gia tốc một tải đang đứng yên đến một tốc độ đồng bộ (vận tốc điều khiển mong muốn). Moment xoắn kéo vào được nêu trong các tài liệu sử dụng động cơ bước là giá trị không chính xác, bởi vì moment xoắn kéo vào phụ thuộc vào moment ban đầu của tải được sử dụng khi chúng được đo, và một vài bảng hướng dẫn động cơ chỉ ra giá trị này. Trong thực tế, luôn có lực ma sát, vì thế, sau khi vị trí cân bằng quay một bước, rotor giống như dao động nhỏ xung quanh vị trí cân bằng mới. Quỹ đạo kết qủa có thể tương tự như trong Hình 2.7: Hình 2.7 Ở đây, quỹ đạo của vị trí cân bằng được biểu diễn bằng đường gạch đứt, trong khi đó, đường cong trên hình là quỹ đạo của rotor động cơ. 8 Cộng hưởng Tần số cộng hưởng của rotor động cơ phụ thuộc vào biên độ của dao động; nhưng khi biên độ giảm, tần số dao động sẽ tăng đến một tần số mà biên độ nhỏ còn xác định được. Tần số này phụ thuộc vào góc bước và tỉ số giữa moment xoắn giữ và moment quán tính của rotor. Ngay cả khi moment xoắn lớn hơn hoặc nhỏ hơn cũng sẽ làm tăng tần số này! Một cách hình thức, cộng hưởng tần số nhỏ có thể được tính như sau: Đầu tiên, nhắc lại phương trình gia tốc góc theo định luật Newton: T = μ A trong đó: T – moment xoắn áp trên rotor μ ‐‐ moment quán tính của rotor và tải A – gia tốc góc tính theo radians/giây bình phương Chúng ta cho rằng, với một biên độ nhỏ, moment xoắn trên rotor có thể được gần đúng bằng một hàm tuyến tính của độ dịch chuyển so với vị trí cân bằng. Vì vậy, áp dụng định luật Hooke: T = ‐k trong đó: k ‐‐ hằng số dao động riêng của hệ, tính bằng đơn vị moment trên radian ‐‐ vị trí góc của rotor, tính bằng radians Chúng ta có thể cân bằng hai công thức moment xoắn để có: μ A = ‐k Chú ý rằng gia tốc là đạo hàm bậc hai của vị trí theo thời gian: A = d2 /dt2 Nên ta có thể viết lại phương trình trên thành dạng phương trình vi phân: d2 /dt2 = ‐(k/μ) Để giải bài toán này, nhắc lại rằng, cho: f( t ) = a sin bt 9 Các dạo hàm của nó là: df( t )/dt = ab cos bt d2f( t )/dt2 = ‐ab2 sin bt = ‐b2 f(t) Ghi chú rằng, xuyên suốt phần này, chúng ta cho rằng rotor đang cộng hưởng. Vì vậy, nó có phương trình chuyển động có dạng: = a sin (2 f t) a = biên độ góc cộng hưởng f = tần số cộng hưởng Đây là một cách giải có thể chấp nhận được đối với phương trình vi phân ở trên nếu ta lấy: b = 2 f b2 = k/μ Giải ra tần số cộng hưởng f là một hàm của k and μ, ta có: f = ( k/μ )0.5 / 2 Điều cốt yếu nó là moment quán tính của rotor cộng thêm bất kỳ tải ngẫu lực kèm theo nào. Moment của rotor, trong sự cô lập, là không thích hợp! Một số hướng dẫn động cơ có kèm theo thông tin về cộng hưởng, nhưng nếu động cơ mang tải, tần số cộng hưởng sẽ thay đổi! Trong thực nghiệm, sự dao động này có thể là nguyên nhân của những bài toán quan trọng khi tỉ lệ bước ở bất kỳ đâu cũng gần với tần số cộng hưởng của hệ; kết quả thường xuất hiện những chuyển động ngẫu nhiên không điều khiển được. 10 Cộng hưởng và động cơ lý tưởng Đến điểm này, chúng ta chỉ chia với hằng số đàn hồi góc nhỏ k cho hệ thống. Điều này được đo bằng thực nghiệm, nhưng nếu đường cong moment xoắn so với vị trí là hình sin, nó cũng là một hàm đơn giản của moment xoắn giữ. Nhắc lại rằng: T = ‐h sin( (( /2)/S) ) Hệ số đàn hồi góc nhỏ k là trừ của đạo hàm T tại gốc. k = ‐dT / d = ‐ (‐ h (( /2)/S) cos( 0 ) ) = ( /2)(h / S) Thay vào công thức tần số, ta có: f = ( ( /2)(h / S) / μ )0.5 / 2 = ( h / ( 8 μ S ) )0.5 Nếu biết moment xoắn giữ và tần số cộng hưởng, cách dễ nhất để xác đinh moment quán tính của các phần di chuyển trong một hệ được điều khiển bởi một động cơ bước là tính gián tiếp từ mối quan hệ trên! μ = h / ( 8 f2 S ) Vì mục đích thực nghiệm, vấn đề không phải là moment xoắn hay moment quán tính, mà là gia tốc chịu được lớn nhất! Tiện thể, đây là một hàm đơn giản của tần số cộng hưởng! Bắt đầu với định luật Newton cho gia tốc góc: A = T / μ Chúng ta có thể thay thế công thức trên cho moment quán tính như là một hàm của tần số cộng hưởng, và sau đó thay thế moment xoắn động chịu được lớn nhất thành hàm của moment xoắn giữ để có: A = ( h / ( 20.5 ) ) / ( h / ( 8 f2 S ) ) = 8 S f2 / (20.5) Đo gia tốc tính theo bước trên giây bình phương thay vì dùng radians trên giây bình phương, ta được: Asteps = A / S = 8 f2 / (20.5) Vì vậy, đối với một động cơ lý tưởng có một hàm moment xoắn theo vị trí dạng sin, gia tốc lớn nhất tính theo bước trên giây bình phương là một hàm thông thường của tần số cộng hưởng của động cơ và tải gắn cứng! Trong động cơ nam châm vĩnh cửu hoặc biến từ trở hai mấu, với một đường đặc tính moment xoắn theo vị trí có dạng sin lý tưởng, moment xoắn giữ hai mấu là một hàm đơn giản theo moment xoắn giữ mấu đơn: 11 h2 = 20.5 h1 trong đó: h1 – moment xoắn giữ mấu đơn h2 – moment xoắn giữ hai mấu Thay vào công thức tần số cộng hưởng, chúng ta có thể tìm tỉ lệ giữa các tần số cộng hưởng trong hai trường hợp điều khiển này: f1 = ( h1 / ... )0.5 f2 = ( h2 / ... )0.5 = ( 20.5 h1 / ... )0.5 = 20.25 ( h1 / ... )0.5 = 20.25 f1 = 1.189... f1 Mối quan hệ này chỉ duy trì nếu moment xoắn được cung cấp bởi động cơ không thay đổi đáng kể khi tốc độ bước khác nhau giữa hai tần số này. Nói chung, như sẽ thảo luận ở phần sau, moment xoắn hiệu dụng sẽ gần như không đổi đến khi một bước tiếp theo xảy ra, nó sẽ bị cắt đi. Vì vậy, mối quan hệ này chỉ giữ nguyên nếu tần số cộng hưởng thấp dưới tốc độ bước này. Tại các tốc độ bước trên tốc độ cắt, hai tần số sẽ gần nhau hơn! 12 Tóm tắt chương Trong chương này, chúng ta tìm hiểu hai phần chính là tĩnh học và động học của động cơ bước. Tuy có sự khác nhau đôi chút về cấu tạo và nguyên lý tạo ra từ trường, nhưng về bản chất mối quan hệ giữa moment và vị trí góc của rotor dường như là không khác biệt mấy. Chính vì thế, những lý thuyết của động cơ bước nam châm vĩnh cửu đều có thể áp dụng gần đúng cho động cơ biến từ trở, và hỗn hợp. Điều khiển nửa bước và vi bước thực chất là tạo ra một moment tổng hợp mà chúng ta vẫn thường làm với phép cộng hai dao động hình sinh lệch pha nhau. Khi điều khiển nửa bước, điện áp cấp cho động cơ không thay đổi trên các mấu. Nếu điện áp này thay đổi, vị trí đỉnh của moment tổng không nằm chính giữa vị trí cân bằng của rotor như điều khiển thông thường. Khi điện áp này được thay đổi một cách hợp lý, chúng ta có thể tạo ra những góc bước rất nhỏ cho động cơ, gọi là điều khiển vi bước. Một điều quan trọng nữa trong phần tĩnh học, đó là lực ma sát bên trong động cơ sẽ gây nên các vùng chết, và thường thì với điều khiển đủ bước hoặc nửa bước, chung ta không quan tâm đến các vùng chết này. Trong khi đó, vùng chết lại ảnh hưởng lớn đến khả năng điều khiển vi bước, mà chúng ta sẽ xem xét ở các phần sau. Bài toán động lực học được quan tâm là khi trục động cơ quay từ bước này sang bước khác, và dừng lại, trục động cơ không thể đứng yên hoàn toàn, mà nó còn bị dao động. Chính những dao động này sẽ bị khuếch đại khi có cộng hưởng cơ. Bài toán được đặt ra là làm sao để xác định được khoảng vận tốc bước hợp lý mà không xảy ra hiện tượng cộng hưởng, hoặc giả làm sao để điều khiển chống lại việc cộng hưởng. Phần này chưa được hoàn chỉnh, tôi sẽ còn bổ sung và sửa chữa. Tuy nhiên, vẫn cung cấp cho các bạn để các bạn tham khảo. Tôi sẽ tiếp tục sửa chữa và bổ sung sau.
File đính kèm:
- vat_ly_hoc_dong_co_buoc.pdf