Vận dụng tiếp cận kiểm toán cho mỗi lĩnh vực kiểm toán trong kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ (KTNB) trong doanh nghiệp có nhiều thay đổi để
phù hợp với môi trường kinh doanh thay đổi. Sự thay đổi của mục
đích kiểm toán dẫn tới sự mở rộng hoạt động kiểm toán sang những
lĩnh vực khác nhằm đáp ứng nhu cầu của quản lý. Để thực hiện kiểm
toán hiệu lực, KTNB phải có những cách tiếp cận mới thích hợp để
đạt được mục đích kiểm toán. Có nhiều cách tiếp cận kiểm toán khác
nhau tùy thuộc vào từng mục đích kiểm toán, nội dung kiểm toán. Bài
viết dưới góc độ lý thuyết phân tích từ mục đích của những lĩnh vực
kiểm toán, nội dung kiểm toán theo lĩnh vực để chọn lựa cách tiếp
cận kiểm toán thích hợp cho cuộc kiểm toán. Bài viết đưa ra một mô
hình kết hợp giữa kiểm toán theo rủi ro với những cách tiếp cận khác
để thực hiện mỗi lĩnh vực kiểm toán.
m vi các yếu tố xác định thành công của một tổ chức. Bên cạnh đó, mạng lưới nhà QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 48 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 197- Tháng 10. 2018 cung cấp, khách hàng, đối tác và lợi ích tài chính cũng như là những mối quan hệ với đơn vị công ích, tổ chức và cơ quan của chính phủ có ảnh hưởng đáng kể tới những quy trình nội bộ của một công ty. Vì thế, đây vẫn là điểm KTNB tập trung kiểm toán. Theo đó, những lĩnh vực kiểm toán chủ yếu của KTNB được xác định dựa trên cả vấn đề liên quan trong nội bộ và bên ngoài. Tầm quan trọng của những vấn đề liên quan với bên ngoài sẽ tăng lên khi sự liên kết của công ty với những đối tác bên ngoài tăng lên. Hội đồng quản trị và ban giám đốc có thể yêu cầu KTNB kiểm tra những mối quan hệ hoặc dự án vì nhiều lý do khác nhau, ví dụ, lợi ích, giảm rủi ro của việc thúc đẩy cam kết thực hiện, yêu cầu pháp lý, dự án... KTNB có thể thực hiện một cuộc kiểm toán đặc biệt với những đối tượng kinh doanh trong liên hệ với kiểm toán kinh doanh (business audit) hoặc soát xét hoạt động kinh doanh (business review). Khi thực hiện kiểm toán kinh doanh, KTNB kiểm tra tập trung vào toàn bộ môi trường kiểm toán trong quan hệ với những yếu tố khác của kiểm toán liên quan. Kiểm toán viên thực hiện tất cả những bước công việc kiểm toán riêng, bao gồm tìm kiếm minh chứng tài liệu cần thiết. Trong khi đó, soát xét hoạt động kinh doanh tập trung vào những khía cạnh cụ thể của mối quan hệ ghi nhận và phân tích; kiểm toán viên đưa ra kết luận dựa trên cơ sở thông tin có sẵn. Kiểm toán kinh doanh được xem là một cuộc kiểm toán mang tính chất ngăn chặn được thực hiện cùng với chiến lược giảm rủi ro của việc thúc đẩy thực thi cam kết. Mục đích chính là đảm bảo những quy trình, phương pháp và hướng dẫn tuân thủ và hoạt động như dự tính. Đồng thời, những rủi ro liên quan tới dự án hoặc đối tác được kiểm tra và nếu cần thiết sẽ đưa ra những biện pháp làm giảm rủi ro của việc thúc đẩy cam kết thực hiện. Kiểm toán kinh doanh sẽ tập trung vào những vấn đề pháp lý, hợp đồng hoặc tổ chức. Khi kiểm tra những mối quan hệ, dự án với đối tác bên ngoài, kiểm toán viên nên thực hiện hoạt động kiểm toán ngoài những cam kết kinh doanh của công ty. Cụ thể, kiểm toán viên cần làm rõ việc mở rộng cái gì trước khi điều này có thể dẫn tới khía cạnh pháp lý. Thông thường, mệnh đề “phải kiểm toán” bao gồm xem xét cả mối quan hệ giữa đơn vị và đối tác. Mối quan hệ với đối tác bên ngoài sẽ hiệu quả nếu đối tác có thể hợp tác và phối hợp với kiểm toán mà không phát sinh xung đột. 4. Kết luận về việc vận dụng phương pháp tiếp cận theo lĩnh vực kiểm toán Từ phân tích về cách kết hợp những cách tiếp cận kiểm toán khác nhau với đặc thù của những lĩnh vực kiểm toán khác nhau, bao gồm cả việc triển khai những mục tiêu, hướng kiểm tra và phương pháp kiểm toán tương ứng, hướng vận dụng cách tiếp cận thích hợp cho mỗi lĩnh vực kiểm toán như sau: Với kiểm toán quản lý: Khi kiểm tra cấu trúc tổ chức, các cuộc kiểm toán quản lý có thể sử dụng cách tiếp cận kiểm toán dựa trên hệ thống. Tuy nhiên, kiểm toán viên có thể sử dụng cách tiếp cận kiểm toán dựa trên nghiệp vụ để thực hiện các mục tiêu kiểm toán. Trong lĩnh vực kiểm toán này, sự tập trung kiểm toán dựa vào các kết quả thường đem lại hiệu lực với việc đánh giá sự tuân thủ “thuần túy”. Với kiểm toán hoạt động và kiểm toán tài chính: Vì cả kiểm toán hoạt động và kiểm toán tài chính cùng có trọng tâm là những quy trình và những nghiệp vụ kinh doanh nên tiếp cận kiểm toán dựa trên hệ thống thường được kiểm toán viên lựa chọn. Trong cả 2 lĩnh vực kiểm toán, cách tiếp cận kiểm toán dựa trên các nghiệp vụ sẽ chỉ được sử dụng với những trường hợp đơn lẻ để khẳng định các kết quả. Sự phù hợp của việc vận dụng cách tiếp cận dựa trên sự tuân thủ hoặc dựa trên các kết quả phụ thuộc vào mục tiêu kiểm toán cho dù tiếp cận kiểm toán dựa trên các kết quả sẽ được sử dụng phổ biến hơn. Kiểm toán IT và kiểm toán gian lận: Chúng ta có thể tạo ra những mối liên hệ giữa mục tiêu của kiểm toán với cách tiếp cận kiểm toán áp dụng. Với nhiều mục đích, nhiệm vụ kiểm toán viên có thể tạo ra mối liên hệ nêu trên một cách tương đối rõ ràng. Với kiểm toán IT, tiếp cận kiểm toán dựa trên hệ thống với những yếu tố QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 49Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 197- Tháng 10. 2018 của cách tiếp cận dựa trên các kết quả sẽ là lựa chọn tốt nhất. Tuy nhiên, một cuộc kiểm toán gian lận sẽ luôn sử dụng cách kết hợp giữa tiếp cận dựa trên nghiệp vụ với tiếp cận dựa trên sự tuân thủ trừ phi điều tra hiệu lực chung của một hệ thống ngăn ngừa áp dụng trong công ty. Kiểm toán kinh doanh: Những dự án khách hàng sẽ có xu hướng được xác định bởi cách tiếp cận dựa trên nghiệp vụ. Tuy nhiên với mục đích cải thiện quy trình thì cách tiếp cận dựa trên hệ thống lại đem lại nhiều lợi thế hơn. Trong hầu hết các trường hợp, cách tiếp cận kiểm toán dựa trên các kết quả sẽ phổ biến hơn so với tiếp cận dựa trên sự tuân thủ vì tác động lượng hóa của những phát hiện kiểm toán thường quan trọng trong hoạt động tư vấn nội bộ. Với nhiệm vụ của cách tiếp cận kiểm toán có thể đối với những khu vực mục đích, cách tiếp cận kiểm toán dựa trên rủi ro đóng vai trò như một khung. Dựa trên cơ sở xem xét rủi ro, những quyết định được đưa ra về nội dung tương ứng với mục tiêu kiểm toán có thể thuộc về một mục đích chính hoặc tới những hoạt động chung của một lĩnh vực kiểm toán. Một khi mục tiêu kiểm toán đã được xác định và chiến lược kiểm toán cơ bản lựa chọn thì cách tiếp cận kiểm toán có thể được lựa chọn. Tổng hợp việc sử dụng cách tiếp cận kiểm toán theo các lĩnh vực kiểm toán được trình bày trong Bảng 1. Trong bối cảnh hoạt động KTNB ở nước ta còn hạn chế, việc xác định những phương pháp luận nhằm định hướng và hoàn thiện cơ sở cho thực hành kiểm toán là vô cùng cần thiết. Do đó, việc xác định những lĩnh vực kiểm toán theo mục đích quản trị của mỗi công ty tác động vào việc sử dụng những công cụ quản lý cụ thể trong đó có KTNB. Trong trường hợp như vậy, những gợi ý nêu trên có thể trở nên hữu ích nếu được đặt trong bối cảnh phát triển hoạt động KTNB mở rộng sang những lĩnh vực “mới” và tiến tới hoạt động mang tính chuyên nghiệp. ■ Bảng 1. Mối liên hệ giữa lĩnh vực kiểm toán và cách tiếp cận kiểm toán Tiếp cận Lĩnh vực Quản lý Hoạt động Tài chính IT Gian lận Kinh doanh Dựa vào rủi ro X X X X X X D ự a và o rủ i ro k ết h ợ p vớ i Dựa vào hệ thống X X X X x X Dựa vào nghiệp vụ X x x x X X Dựa vào sự tuân thủ X X X x X x Dựa vào các kết quả X X X X X X Giải thích: X- quan trọng; x- ít quan trọng Nguồn: Đề xuất của tác giả Tài liệu tham khảo 1. Institute of Internal Auditors (2009), International Professional Practices Framework, No. 2100. Altamonte Springs, FL: The Institute of Internal Auditors Research Foundation. 2. K.H. Spencer Pickett (2005), Auditing the risk management process, John Wiley & Sons, Inc. 3. K.H. Spencer Pickett, Jennifer M. Pickett (2005), Auditing for Managers: The Ultimate Risk Management Tool, John Wiley & Sons, Inc. 4. Keith, J. (2005), Killing the Spider. Internal Auditor (April 2005): 25–27. 5. Phan Trung Kiên (2008), “Perfecting the Internal Audit Organization in Vietnamese Construction Companies”, Ph.D. Thesis, National Economics University, 2008. 6. Phan Trung Kien, Nguyễn Thị Thanh Diệp, Nguyễn Thị Lan Anh, Tạ Thu Trang (2012), “Appraising Performance of the IA Function in Vietnamese Commercial Banks”, Research Project, National Economics University, 2012. 7. Robert R. Moeller (2008), Sarbanes Oxley – Internal controls: Effective Auditing with AS5, CoBiT, and ITIL, John Wiley&Son, Inc. 8. Sawyer, L., M. Dittenhofer and J. Scheiner (2003), Sawyer’s Internal Audit- ing. 5th ed. Altamonte Springs, Fl: he Institute of QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 50 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 197- Tháng 10. 2018 Internal Auditors. 9. Sears, B (2002), Internal Auditing Manual. New York, NY: Warren, Gorham & Lamont. 10. Selim, G. and McNamee, D. (1999) “The Risk Management and Internal Auditing Relationship: Developing and Validating a Model”, International Journal of Auditing, Vol. 3, pp. 159-174. 11. Nguyễn Thị Hồng Thúy (2010), “Organizing the Internal Audit in Vietnamese Economics Group”, Ph.D. Thesis, National Economics University, 2010. 12. Yass Alkafaji, Shakir Hussain, Ashraf Khallaf, Munir A. Majdalawieh (2010), Characteristics of an Internal Audit Activity Report I, The IIA’s Global Internal Audit Survey: A Component of the CBOK Study, IIA’s Research Foundation. Thông tin tác giả Phan Trung Kiên, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Viện Kế toán- Kiểm toán, Đại học Kinh tế Quốc dân Email: phankien76@gmail.com Summary The application of auditing approaches for audit fields in an internal audit The development of the internal audit function in enterprises exhibits itself in a changing business environment. Its goals added impact on the extension of the function’s activities that pertain to management’s strategy. It is necessary for this function that internal audit should change to get appropriate auditing approach in accordance with non-traditional audit fields. Actually, internal auditors have been choices of different auditing perspectives related to traditional audit fields within an internal audit. This study analyzes internal audit function’s targets and auditing contents, or audit fields concerned in which a given auditing approach or a combination between risk- based approach and one of remaining approaches recommended is suitable for a particular audit field in an audit. Keywords: internal audit, auditing approach, audit field. Kien Trung Phan, Assoc.Prof. PhD. School of Acounting- Auditing, Nation Economic University
File đính kèm:
- van_dung_tiep_can_kiem_toan_cho_moi_linh_vuc_kiem_toan_trong.pdf