Vấn đề dịch thơ Maiakovski ở Việt Nam
TÓM TẮT
Thông qua việc so sánh các bản dịch thơ Maiakovski của một số dịch giả Việt Nam,
bài viết góp phần khẳng định một mệnh đề của lí thuyết Tiếp nhận văn học: Người dịch là
một kiểu độc giả đặc biệt, bản dịch là một cách đọc, có vai trò định hướng và định giá
nguyên tác.
Lénine nhưng không phải vậy mà người ta không thấm cảm nỗi đớn đau bây giờ là lúc niềm đớn đau chia lìa, trở thành sự xấu xa lương tâm trong sáng [] Tôi, tôi tự lau chùi sự sáng chói Lénine để đào sâu hơn nữa 33 mạng cuộc cách (Vladimir Ilitch Lénine, 1925) Đoạn đối chiếu 4: Во весь голос Nguyên tác tiếng Nga Bản dịch của Hoàng Ngọc Hiến Bản dịch của Thế Phong И все поверх зубов вооруженные войска, что двадцать лет в победах пролетали, до самого последнего листка я отдаю тебе, планеты пролетарий. Рабочего громады класса враг - он враг и мой, отъявленный и давний. Велели нам идти под красный флаг года труда и дни недоеданий. [] Явившись в Це Ка Ка идущих светлых лет, над бандой поэтических рвачей и выжиг я подыму, как Và mọi quân đoàn vũ trang đầy đủ nhất, hai mươi năm nay trong chiến thắng tung hoành xin hiến dâng người, vô sản của hành tinh, hiến dâng toàn bộ, tận trang cùng, dòng cuối kẻ thù của công nhân, giai cấp đông ức triệu là thù của tôi vốn rõ mặt tỏng tong. Những năm lam lũ và những ngày ăn đói thôi thúc chúng tôi đi dưới ngọn cờ hồng [] Đến trước Trung ương Đảng những năm sáng sủa, đạp lên đầu lũ nhà thơ bịp bợm, giỏi xoay tôi giơ cao lên tấm thẻ Đảng tôi đây, trăm tập sách thơ tôi, Và tất cả đoàn quân trang bị khí giới tới cằm mà hai mươi năm trong thành công rải rác tôi sẽ tặng cho họ đến trang cuối cho mi, vô sản địa cầu Tất cả vô địch của giới thợ thuyền luôn luôn là thù địch tôi thề hận Chúng nó bảo ta đi phục vụ dưới màu cờ đỏ năm khốn khó những ngày không có ăn [] Trước đám C.C.C. những năm trong sáng ở trên là bọn can đảm và bọn ăn cắp thi ca, tôi đứng dậy như con bài của Đảng toàn tập 34 большевистский партбилет, все сто томов моих партийных книжек sách Đảng. (Lớn tiếng, 1930) tác phẩm của tôi: Bolchéviks (Giọng nói lớn, 1930) Nói đến dịch thuật, người ta thường lưu ý ba nguyên tắc là tín, đạt, nhã. Một bản dịch cần vừa đảm bảo độ tin cậy, vừa diễn đạt đủ ý, vừa phải tao nhã. Thực ra, việc diễn đạt đủ/đạt ý cũng nằm trong tiêu chí tín. Chữ tín/đạt này được hiểu không phải là lối chuyển dịch từ sang từ (word by word), mà là chuyển lại nội dung ngữ nghĩa, văn phong, thậm chí cả nhịp điệu của nguyên tác sang một ngôn ngữ khác. Giữa dịch ngôn ngữ (language translation) và dịch ý nghĩa (interpretative translation) giới dịch thuật đánh giá cách dịch sau hơn cách dịch trước. Đọc một số đoạn trích dịch của Thế Phong trên đây, ta dễ có ấn tượng là dịch ở cấp độ từ và câu, trong khi ấy dịch ý nghĩa phải là dịch ở cấp độ văn bản. Dịch thuật cũng là một công việc sáng tạo, đòi hỏi mỗi dịch giả là một nhà nghệ sĩ; dịch phẩm hay/dở phụ thuộc rất nhiều vào điều này. Tuy nhiên, dù có sáng tạo như thế nào, người dịch vẫn phải trung thành với nguyên tác về nội dung, văn phong. Anh ta không có quyền áp đặt nội dung, tư tưởng hay giọng điệu khác cho nhà văn. Dịch giả buộc phải dạo cùng một cung đàn mà tác giả biểu diễn. Albert Karenski khuyến cáo: “Tôi xin nhắc lại một điều tâm niệm: Trong lao động dịch thuật, phải giới hạn một cách có ý thức cá tính sáng tạo của mình theo hướng có lợi cho tác giả mình dịch”3. Còn chữ nhã, theo kinh nghiệm của nhiều dịch giả, không nên coi là nguyên tắc chung của dịch thuật, bởi không phải bất cứ dịch phẩm nào cũng buộc phải bảo đảm tiêu chí này: Nguyên tác có nhã thì bản dịch mới cần nhã. Còn như chuyển một nguyên tác không nhã thành một bản dịch nhã tức là không tuân thủ nguyên tắc tín. Điều này cần đặc biệt lưu ý khi dịch thơ của các nhà Vị lai4. Các tác phẩm của V. Maiakovski là trường hợp như vậy. Thơ ông là một hình thức mới trong việc cắt đứt mọi vần điệu, hoà trộn văn ngôn với khẩu ngữ, nhịp điệu biến hoá khôn lường. Ba dịch giả trên đây cố gắng chuyển tải nội dung và hình thức câu thơ của nhà thơ - chiến sĩ cộng sản Nga, nhưng không phải ai cũng thành công. Qua bản dịch của từng người, ta nhìn thấy người nghệ sĩ trong cá nhân họ, đồng thời nhìn thấy họ nhìn nhà nghệ sĩ Vị lai Maiakovski như thế nào. Ở bản dịch của Trần Dần, ta thấy nổi bật trước hết là phẩm tính của một thi sĩ. Ngoài ví dụ mà chúng tôi đưa ra đối chiếu trong bài viết này, Trần Dần còn dịch nhiều thi phẩm khác của Maiakovski với một sự tinh tế, tài hoa đặc biệt. Tuy nhiên, chất trữ tình lai láng trong bản dịch của ông dường như hơi nhiều so với nguyên tác, cho nên chưa thật sự làm nổi bật tính nguyên sơ và sự thô nhám rất đặc trưng của “quặng lời” Maiakovski. Đặc điểm này được khắc phục trong các bản dịch của Hoàng Ngọc Hiến. Bên cạnh đó, Hoàng Ngọc Hiến còn khá thành công trong việc chuyển tải hình thức thơ bậc thang, với cách ngắt nhịp để tạo ý và thay cho vần điệu. Ông ý thức được việc cần phải tạo nên những từ ngữ tương 35 đương trong tiếng Việt khi chuyển tải các hình ảnh phóng đại có khả năng đập vào thị giác người đọc, các từ ngữ có hiệu lực âm thanh tối đa dội vào tai người nghe – đặc trưng của thơ Vị lai. Bản dịch của Thế Phong thiếu vắng khá nhiều điều căn bản trên, bên cạnh đó có thể quan sát nhiều chỗ dịch còn sai, thậm chí trái nghĩa, cho nên khó chuyển tải đến người đọc chân dung chân thực về con người cũng như phong cách nhà thơ hàng đầu của nền thi ca xã hội chủ nghĩa. Maiakovski trong nguyên tác cao lớn, chói sáng, hào sảng hơn rất nhiều, thật sự là một tháp đài sững sững, biểu tượng cho sức mạnh và vẻ đẹp một thời lãng mạn cách mạng. Hai dịch giả miền Bắc, dù thông qua nguyên tác Nga ngữ hay thông qua bản dịch trung gian Pháp ngữ, đều nhìn thấy trong Maiakovski một nhà thơ trung thành với lí tưởng cộng sản đến từng con chữ, từng dấu phẩy, đến hơi thở cuối cùng, nguyện hiến dâng trọn vẹn mình cho “vô sản của hành tinh”. Ở bản dịch của Thế Phong, ta thấy không phải hoàn toàn như vậy. Ông dịch Poète Russe lần đầu vào năm 1963, trong hoàn cảnh Sài Gòn tiếp nhận văn học Nga nhiều điều cơ bản khác với miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Phạm Thị Phương nhận xét: “Thế Phong có một cách “đọc” khác so với cách “đọc” của Hoàng Ngọc Hiến. Cách đọc đó hình như phù hợp với một tinh thần muốn nhìn thấy sự phản kháng của người nghệ sĩ đang sống “sau bức màn sắt”5. Đọc từng đoạn cũng như toàn bộ văn bản thơ dịch trong Maiakovski – thi sĩ Nga hay mối tình câm của nàng, độc giả lĩnh hội được một tinh thần phản kháng nào đó của Maiakovski đối với chính quyền – điều mà thực ra không thấy ở nguyên tác của ông nói chung và trong bài thơ được Thế Phong dịch nói riêng. Càng về cuối đời, Maiakovski càng thất vọng vì “vấp đời phàm tục” trong lí tưởng phục vụ xã hội cũng như trong nhiều mối quan hệ cá nhân, tinh thần phê phán của ông đối với những bất cập của đời sống càng trở nên sâu sắc, chua chát hơn, nhưng bảo đó là sự phản kháng chế độ Xô-viết thì không phải. Khác với S. Esenin “Sẵn sàng dâng hết lòng mình cho tháng Mười tháng Năm/ Nhưng riêng thơ mình tôi xin giữ lại”, Maiakovski từ ngày đầu đến với cách mạng xã hội chủ nghĩa cho đến phút cuối nghiệt ngã của cuộc đời, vẫn thề nguyện dành toàn vẹn con người và thơ ca cho Xô- viết”6. Dịch thuật được coi là sự mở đầu đọc văn bản của người dịch và là sự nối tiếp đọc của độc giả sau đó, góp phần quan trọng định hướng tiếp nhận cũng như xác định giá trị tác phẩm nghệ thuật. Việc chuyển tải trung thành và có tính nghệ thuật một nguyên tác sang ngôn ngữ khác đòi hỏi lòng say mê, kiên trì, lao động nghiêm túc. Maiakovski là một hiện tượng đặc biệt của văn hoá đọc. Để tiếp cận được với ông, cần phải có những bản dịch thật sự biết “đọc” ông, “nghe” được ông. Làm được điều ấy, thì dù cho ý thức hệ, cảm quan thẩm mĩ của người đọc thế hệ sau có chuyển hướng cơ bản so với thời đại ông, nghệ thuật của ông vẫn mãi trường tồn. Chú thích: 1 Hoàng Ngọc Hiến (2005), Từ Maiakovski đến Evtusenko, Nxb Đà Nẵng, tr. 5. 2 Hoàng Ngọc Hiến (2005), Sđd, tr. 7. 36 3 Karenski, A. (1996), “Cá tính sáng tạo của dịch giả và “thính giác tu từ”, Văn học nước ngoài, số 3, Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội, tr. 221. 4 Chủ nghĩa Vị lai (Futurism, Футуризм): tên gọi chung của một trong những trào lưu tiên phong chủ nghĩa trong nghệ thuật thập niên 1910 - 1920, thịnh hành chủ yếu ở Ý và Nga. Các nhà Vị lai tuyên truyền phá hủy các hình thức và quy ước của nghệ thuật cũ, vì lợi ích của việc sáp nhập nghệ thuật với quá trình tăng tốc cuộc sống thế kỉ XX. Đặc trưng của xu hướng này là nghiêng về hành động, chuyển động, sức mạnh, tốc độ, sự phong đại; đề cao dấu hiệu thị giác; từ ngữ được giải phóng khỏi khuôn khổ cứng nhắc của thứ tự cú pháp, của kết nối logic; từ bỏ lối viết tuyến tính; xây dựng văn bản trên sự tương đồng giữa nhiều hình thức. 5 Phạm Thị Phương (2010), Văn học Nga tại đô thị miền Nam 1954-1975, Nxb Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 86. 6 Phạm Thị Phương (2010), Sđd, tr. 86. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hoàng Ngọc Hiến (2005), Từ Maiakovski đến Evtusenko, Nxb Đà Nẵng. 2. Karenski, A. (1996), “Cá tính sáng tạo của dịch giả và “thính giác tu từ”, Văn học nước ngoài, số 3, Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội. 3. Маяковский Владимир Владимирович (1978), Полное собрание сочинений. Москва, Издательство “Правда”. 4. Maiakovski, V. (1987), Trường ca, Hoàng Ngọc Hiến dịch và giới thiệu, Hà Nội, Nxb Văn học. 5. Maiakovski, V, Trường ca Ống sáo đốt xương sống, Trần Dần dịch, Nguồn: cập nhật ngày 30.12.2011. 6. Phạm Thị Phương (2010), Văn học Nga tại đô thị miền Nam 1954-1975, Nxb Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. 7. Triolet, Elsa (1963), (1968), (2004), Maiakovski và mối tình câm, Thế Phong dịch, Nxb Tổng hợp Đồng Nai. * Nhận bài ngày 13/3/2011. Sửa chữa xong 31/3/2012. Duyệt đăng 5/4/2012.
File đính kèm:
- van_de_dich_tho_maiakovski_o_viet_nam.pdf