Tiền lương tối thiểu ở Việt Nam: Một số quan sát và phân tích
Trong quá trình hơn 70 năm, chính sách tiền lương tối thiểu ở Việt Nam đã dần
dần phát triển nhằm tạo ra “lưới an toàn” bảo vệ người lao động, đồng thời cũng
là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Bài viết trình bày
lịch sử tiền lương tối thiểu ở Việt Nam và phân tích thực trạng áp dụng mức
lương tối thiếu mới cho lao động làm việc tại các doanh nghiệp trong nước có
phân biệt theo vùng. Nhiều khảo sát cho thấy, lương tối thiểu vùng tăng có tác
động đa chiều đến doanh nghiệp và người lao động: Đối với doanh nghiệp, tác
động rõ nhất là tăng chi phí nhân công do các khoản bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
y tế và bảo hiểm thất nghiệp tăng. Doanh nghiệp có xu hướng điều chỉnh cấu
trúc để giảm chi phí tiền lương và các chi phí liên quan khác, trong đó có khả
năng nâng cao năng suất lao động và giảm nhu cầu lao động. Đối với người lao
động, mức thu nhập trung bình chỉ mới đáp ứng các khoản chi tiêu cơ bản nhất
và không có tiết kiệm hoặc dự phòng rủi ro do giá cả cũng tăng tương ứng với
tăng lương. Chính vì thế, tăng lương tối thiểu vùng cho đến nay còn tiềm ẩn
nhiều tác động không mong muốn
phụ cấp, thu nhập em được gần 11.000.000 đồng, tuy nhiên, tăng ca nhiều như vậy em rất mất sức. Nhưng nếu em không tăng ca đều thì các khoản phụ cấp khác sẽ bị trừ theo, dẫn đến giảm thu nhập; Em B, em làm ở đây được 7 năm, thu nhập em dao động khoảng 6-7 triệu, với mức thu này em đành gửi con ở quê cho ông bà, tằn tiện lắm mới dư được 2 triệu/tháng để gửi về cho ông bà nuôi cháu, nhiều lúc thiếu hụt phải vay mượn thêm bạn bè. Việc tăng lương tối thiểu NLĐ như tôi ít mong chờ, vì lúc nào cũng tôi cũng nhận lương cao hơn lương tối thiểu vùng, nên doanh nghiệp không điều chỉnh. Ở vùng 1 như TPHCM thì chi phí giá cả cao hay tăng khi mức lương tối thiểu tăng. Em không để ý đến tăng lương tối thiểu” (Trích TLN đề tài “Đạo đức kinh doanh” do Oxfam tài trợ, 2019). Kết quả thảo luận nhóm ở Đồng Nai (Oxfam và SISS, 2015) cho thấy một bức tranh chi tiết về thu nhập và chi tiêu của 2 vợ chồng đều là công nhân ngành điện tử và có 2 con đang đi học (lớp 2 và mầm non) nhƣ sau: Lƣơng cơ bản mỗi ngƣời 3,5 triệu đồng/tháng, cộng phụ cấp đi lại 200 ngàn đồng, nhà ở 200 ngàn đồng, chuyên cần 200 ngàn đồng, và các khoản tăng ca, cao nhất là 750 ngàn đồng/tháng, thấp nhất 250 đồng ngàn/tháng. Thu nhập bình quân mỗi ngƣời khoảng 5,1-5,2 triệu đồng/tháng. Chi tiêu các nhu cầu cơ bản: BHXH 400 ngàn đồng/tháng x 2 ngƣời; nhà trọ 1 triệu đồng (bao gồm điện, nƣớc); tiền ăn cho cả nhà khoảng 4 triệu đồng (rất tiết kiệm); tiền học và gửi con 2 đứa x 800 ngàn đồng/đứa; sữa 2 đứa con 1 triệu đồng; xăng xe 200 ngàn đồng x 2 ngƣời; điện thoại 100 ngàn đồng; đám tiệc trung bình 500 ngàn đồng/tháng. Tổng chi tiêu trung bình cho cả nhà khoảng 9,8 triệu đồng/tháng; chƣa tính chi phí khám chữa bệnh cho trẻ con – trẻ con hiếm có tháng nào không bệnh; chƣa tính chi phí không thƣờng xuyên nhƣ giải trí, quần áo. Đối với trƣờng hợp này, thu nhập trung bình vừa đủ chi tiêu, khoản tiền kiệm không thể thực hiện đƣợc. Kết quả khảo sát của Công đoàn các khu công nghiệp và khu chế xuất TPHCM năm 2018 cũng cho thấy, mức lƣơng cơ bản tại Khu công nghiệp Linh Trung I trung bình 4,78 triệu đồng, thu nhập trung bình khoảng 6,2 triệu đồng. Khi so sánh thu nhập và chi tiêu, công nhân chƣa lập gia đình tiết kiệm đƣợc 1,2 triệu đồng/tháng. Hộ gia đình có 1 con, thu nhập tạm đủ trang trải cuộc sống, tiền tiết kiệm khoảng 300 ngàn đồng/ tháng. Hộ gia đình có 2 con thu nhập không đủ chi phí cho cuộc sống hàng ngày (dẫn theo Ban Tuyên giáo Trung ƣơng, 2019). Cả hai trƣờng hợp vừa nêu ở trên đƣợc tính lƣơng tối thiểu năm 2015 vùng 1 (3,1 triệu đồng); năm 2018 (3,9 triệu đồng). Nhìn vào mức lƣơng tối thiểu, rõ ràng chúng ta thấy tăng mạnh, nhƣng làm phép tính so sánh giữa thu nhập trung bình và chi tiêu trung bình, cho thấy NLĐ vẫn còn khó khăn, thiếu thốn. TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (254) 2019 69 Một khảo sát khác của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam khảo sát năm 2018 cho thấy, tổng thu nhập trung bình (không kể tiền tăng ca) gần 5,53 triệu đồng/tháng. Tổng chi tiêu bình quân hộ/tháng đối với 2.885 NLĐ đang sống chung hộ gia đình với ngƣời thân, cơ cấu 3,7 nhân khẩu/hộ, trong đó có 2,05 ngƣời phụ thuộc (con nhỏ), và 1,65 lao động hƣởng lƣơng, khoảng 7,38 triệu đồng/tháng. Trong số này có 32% NLĐ cho biết gia đình họ có khoản tiết kiệm trung bình 1,5 triệu đồng/tháng để chi tiêu dịp Tết, lúc ốm đau, thất nghiệp và đầu tƣ việc học cho con cái. So sánh thu nhập với chi tiêu của NLĐ và gia đình, có 17,4% tích lũy tiết kiệm đƣợc, 43,7% vừa đủ trang trải cho cuộc sống, 26,5% chi tiêu tiết kiệm và kham khổ, 12,5% thu nhập không đủ sống (dẫn theo Vietnambiz, 2018). Một khảo sát khác của Trung tâm Phát triển và Hội nhập (CDI, 2018) ở công nhân ngành may 3 tỉnh Hải Dƣơng, Đồng Nai và TPHCM cho thấy, lƣơng cơ bản chiếm 64% tổng thu nhập, đây là khoản chắc chắn mà NLĐ đƣợc nhận hàng tháng (5.119.000 đồng). Các khoản phụ cấp, lƣơng tăng ca, thƣởng khác chiếm 36% tổng thu nhập. Đây là khoản có thể bị trừ hoặc không nhận đƣợc vào những giai đoạn ít việc dẫn đến thu nhập không ổn định và còn phụ thuộc vào đơn hàng của doanh nghiệp. Tổng chi tiêu trung bình theo khảo sát này là 5.249.000 đồng/tháng; tổng lƣơng cơ bản và phụ cấp trung bình 6.480.000 đồng/tháng, vậy chi tiêu chiếm 81% lƣơng cơ bản và phụ cấp. Khảo sát này còn cho biết, hơn 54,8% NLĐ đƣợc hỏi cho biết thu nhập hiện tại của họ chỉ đủ cho các nhu cầu tối thiểu hàng ngày, và không đủ cho các nhu cầu khác nhƣ hỗ trợ gia đình hay tiết kiệm đề phòng rủi ro. Một số kết quả thực tế từ các cuộc khảo sát ở trên cho thấy, doanh nghiệp hiện nay đều trả lƣơng cao hơn mức lƣơng tối thiểu vùng. So sánh với chi tiêu thì còn phụ thuộc giá cả của mỗi vùng, tùy theo nhu cầu sống của mỗi cá nhân và gia đình. NLĐ và gia đình vẫn phải tính toán, tằn tiện trong khoản thu nhập ấy. NLĐ làm việc ở thành phố phần nhiều là dân nhập cƣ, nên muốn kiếm thu nhập. Ngoài việc trang trải đủ nhu cầu sống của bản thân, thì họ còn phải tiết kiệm gửi về quê để chăm sóc gia đình và con cái học hành. Tuy nhiên, thu nhập họ vẫn còn bấp bênh, chƣa thật sự ổn định, họ phải dốc kiệt sức cho những giờ tăng ca nhằm mục đích tăng thêm thu nhập để trang trải cuộc sống và tiết kiệm. Dù lƣơng tối thiểu vùng có tăng, nhƣng cuộc sống của NLĐ chƣa thật sự đƣợc cải thiện. Theo kết quả khảo sát của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, có tới 25,7% NLĐ cho rằng mức lƣơng hiện nay còn thấp so với nhu cầu cơ bản của cuộc sống, không đủ để trang trải cho các chi phí cần thiết. Do vậy, 88% công nhân phải đi làm thêm giờ để tăng thu nhập và cải thiện cuộc sống, mặc dù không muốn, nhƣng họ vẫn NGUYỄN ĐẶNG MINH THẢO – TIỀN LƢƠNG TỐI THIỂU Ở VIỆT NAM 70 phải làm thêm (dẫn theo báo Công an Nhân dân, 2019). 4. KẾT LUẬN Trong các nghiên cứu gần đây mà chúng tôi phân tích ở trên, có thể cho thấy lƣơng tối thiểu sẽ khiến cho chi phí của doanh nghiệp đội lên một khoản đáng kể. Việc phải gánh chịu chi phí cao khiến cho doanh nghiệp phải tìm những phƣơng thức khác nhau để bù đắp vào, trong đó không loại trừ khả năng cắt giảm những khoản chi phí khác của NLĐ. Bên cạnh đó mặc dù lƣơng tối thiểu tăng nhiều trong những năm qua nhƣng đời sống của NLĐ ở các khu công nghiệp còn khó khăn bởi chi phí tăng. Họ vẫn phải làm thêm giờ để tăng thêm thu nhập, phải dè xẻn trong chi tiêu vì giá cả sinh hoạt tăng lên, đa số họ chƣa có khoản tiết kiệm để chi cho các khoản tiêu dùng đột xuất . Tuy nhiên, tăng lƣơng tối thiểu vẫn là một động thái tích cực đối với NLĐ. Vì khi mức lƣơng tối thiểu vùng tăng thì doanh nghiệp sẽ phải tăng mức lƣơng cho NLĐ có mức lƣơng thấp hơn mức tối thiểu hiện tại. Do đó, một bộ phận NLĐ sẽ đƣợc nâng lƣơng để phù hợp với mức lƣơng tối thiểu vùng. Đồng thời khi tăng lƣơng, mức đóng BHXH cũng sẽ tăng lên. Trên thực tế, doanh nghiệp thƣờng tìm cách để chỉ phải đóng BHXH trên mức lƣơng cơ bản theo quy định. Do vậy, việc tăng mức lƣơng tối thiểu vùng sẽ dẫn đến mức lƣơng làm cơ sở để đóng BHXH cho NLĐ cũng sẽ tăng, tƣơng ứng là tăng mức đóng BHTN, BHYT. Việc tăng mức lƣơng tối thiểu vùng sẽ tạo động lực cho họ tìm cách đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất và cắt giảm nhân sự để giảm những chi phí liên quan đến tiền lƣơng và các chi phí khác. Cùng với đó nguy cơ NLĐ mất việc làm do doanh nghiệp đầu tƣ công nghệ mới là khả năng có thực. Vì vậy, cần thiết có giải pháp tiếp theo cho thực trạng này. CHÚ THÍCH (1) Định nghĩa tiền lƣơng danh nghĩa: là số tiền mà NSDLĐ trả cho NLĐ. Số tiền này nhiều hay ít phụ thuộc trực tiếp vào năng suất lao động và hiệu quả làm việc của ngƣời lao động, phụ thuộc vào trình độ, kinh nghiệm làm việc trong quá trình làm việc (Vietnam Finance: “Thu nhập thực tế là gì? Tiền lƣơng thực tế và tiền lƣơng danh nghĩa”, https://vietnam finance.vn/), truy cập ngày 30/9/2019. TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Ban Tuyên giáo Trung ƣơng. 2018. Trang Xã hội : “Tăng lƣơng tối thiểu vùng: Ngƣời lao động và doanh nghiệp cùng kêu khó”, truy cập ngày 30/9/2019. 2. Báo Công an Nhân dân. 2019. “Lấy ý kiến tăng lƣơng tối thiểu vùng: Cả công nhân, doanh nghiệp cùng tâm tƣ”, truy cập ngày 1/10/2019. 3. Cuong Nguyen. 2009. Do Minimum Wage Increases Matter to Profitability of Private TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (254) 2019 71 Firm? The Case of Vietnam Do Minimum Wage Increases Matter to Profitability of Private Firm? Online at 4. Cuong Nguyen. 2017. Do minimum wages affect firms’ labor and capital? Evidence from Vietnam. Journal of the Asia Pacific Economy, No. 22(2), 291-308, https://doi.org/10.1080/13547860.2016.1276697. 5. Nguyễn Đức Thành, Phạm Thị Tuyết Trinh, Nguyễn Thanh Tùng. 2016. Tiền lƣơng tối thiểu ở Việt Nam. Bài thảo luận chính sách. 6. MDRI và VCCI. 2017. “Báo cáo tác động của lƣơng tối thiểu lên lao động và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp ở Việt Nam”. Report. 7. Schmillen, Achim D, và Packard, Truman G. 2016. “Vietnam’s Labor Market Institutions, Regulations, and Interventions: Helping People Grasp Work Opportunities in a Risky World”. World Bank Policy Research Working Paper 7587. Washington, DC, 8. Oxfam. 2015. Rào cản pháp luật và thực tiễn đối với ngƣời lao động di cƣ trong tiếp cận an sinh xã hội. Report. 9. Oxfam. 2018. Tiền lƣơng không đủ sống và hệ luỵ - Nghiên cứu một số doanh nghiệp may xuất khẩu ở Việt Nam. Report. 10. VERP and JICA (2017) “Labor Productivity And Wage Growth In Viet Nam”, Report. 11. Viện Nghiên cứu Công nhân và Công đoàn. 2014. Kết quả khảo sát mức sống tối thiểu của NLĐ trong các doanh nghiệp năm 2014. Hà Nội. 12. Vietnambiz. 2018. Trang Thời sự: “Thu nhập của ngƣời lao động năm 2018 bình quân 5,5 triệu/tháng” https://vietnambiz.vn/, truy cập ngày 1/10/2019.
File đính kèm:
- tien_luong_toi_thieu_o_viet_nam_mot_so_quan_sat_va_phan_tich.pdf