Thơ đi sứ nhà Trần
Tóm tắt. Thơ đi sứ là các vần thơ được các sứ thần Đại Việt sáng tác trên con đường đi sứ
để thực hiện công việc bang giao giữa Việt Nam với Trung Hoa bắt đầu từ thế kỉ XIII và
kết thúc ở thế kỉ XIX. Trong đó, thơ sứ trình nhà Trần đóng vai trò tiên phong khơi mở.
Thơ đi sứ nhà Trần khơi nguồn những đề tài chính cho dòng thơ Hoa trình thời trung đại:
thơ viết về thiên nhiên Trung Hoa, thơ viết về nhân vật lịch sử Trung Hoa, thơ xướng họa,
đối đáp với quan lại Trung Hoa.
ôn bế” (Quá Tiêu Tương - Bà phi qua đời, cửa điện bèn khép lại). Thái độ phê phán không phải là cảm hứng chủ đạo trong thơ vịnh sử của sứ thần Đại Việt nhưng qua những số phận bất hạnh của lịch sử ít nhiều tiếng nói tố cáo được thể hiện. Trong thơ đi sứ nhà Trần, tiếng nói phê phán được thể hiện tập trung trong Ca Phong đài của Nguyễn Trung Ngạn và Đề Hạng Vương từ của Hồ Tông Thốc. Đi sứ Trung Hoa, Nguyễn Trung Ngạn dành nhiều tình cảm bạn bè cho những số phận tài hoa, những con người tiết nghĩa, thủy chung mà bất hạnh và cả những người dân lao động vất vả, lầm than mà ông có dịp “sở kiến” tuy nhiên ông lại có cái nhìn phê phán nghiêm khắc với những tham vọng, bạo tàn của Lưu Bang, dù đó là nhân vật vĩ đại được nhân dân Trung Hoa tôn thờ. Đối với Nguyễn Trung Ngạn, Lưu Bang không phải là nhân vật hoàn hảo. Bởi lẽ sau khi dẹp xong Tần, Sở, có được thiên hạ, Lưu Bang không nghĩ đến việc ban 46 Thơ đi sứ nhà Trần ơn xuống dưới để phát triển một đất nước bình yên thịnh trị mà chỉ lo thu nạp thật nhiều dũng sĩ giữ gìn bốn phương để củng cố sự nghiệp “tranh bá đồ vương”, để thỏa khát vọng bá chủ: “Khả tích diệt Tần, bình Sở hậu/ Bất ca Trạm lộ chỉ ca phong” (Đáng tiếc sau khi diệt Tần, bình xong Sở/ Không ca bài ca Trạm lộ chỉ ca bài ca Phong). . . Trước đền Hạng Vương, Hồ Tông Thốc thể hiện cái nhìn phê phán: “Kinh doanh ngũ tải thành hà sự? Tiêu đắc khu khu táng Lỗ Công” (Đề Hạng Vương từ - Năm năm lăn lộn được việc gì? Chỉ còn được vùi trong mả Lỗ Công). Hai cấu kết là lời đánh giá của thi nhân với người xưa: giết kẻ đầu hàng, bội lời hẹn ước, tranh bá đồ vương rồi một lúc bằng không, khi chết đi cũng chỉ táng trong mả Lỗ Công mà thôi. Qua mỗi bài thơ viết về lịch sử, các nhà ngoại giao Đại Việt đều đưa ra những quan điểm của mình về thời cuộc về sự xoay vần của tạo hóa. Được – thua, thành – bại, tốt – xấu, chính – tà, vinh – nhục. . . cuối cùng cũng bị thời gian khuất lấp. Bạc ác như Vương An Thạch; tham vọng như Lưu Bang; tài mưu lược quân sự như Gia Cát Lượng, Chu Du; trung nghĩa như Khuất Nguyên, Giả Nghị; văn chương nổi tiếng như Tô Đông Pha, Đào Tiềm, Lí Bạch, Đỗ Phủ; thủy chung như Nga Hoàng, Nữ Anh. . . khi chết cũng chỉ là những nấm mồ hoang xương lạnh, là đền vắng hoang tàn bị thiên nhiên cỏ cây khuất lấp. Tri nhận được như vậy các tác giả chứng tỏ cái nhìn biện chứng, một tâm thế vững vàng trước thời cuộc thịnh suy, trước những còn mất là quy luật muôn đời. Ở bài Quá Tiêu Tương có nhắc đến cái chết của Nga Hoàng và Nữ Anh. Họ đều là con của vua Nghiêu, vợ của vua Thuấn, khi vua Thuấn chết họ đau khổ khóc thương đến chết ở vùng sông Tương. Nhưng câu kết của bài lại không chìm vào câm lặng. Thiên tạo vẫn xoay vần, dòng sống muôn loài thì vẫn cứ tiếp diễn. Ngoài cửa điện kia, mặt trời vẫn đi qua, tiếng chim đa đa lại kêu rộn rã. Cõi hiện sinh này như chưa hề biết nơi đây đã từng chứng kiến bi kịch trong quá khứ xa mờ: “Hồng nhật hạ sơn đề giá cô” (Mặt trời gác núi, tiếng chim đa đa kêu rộn rã). Kết thúc bài thơ Ô Giang Hạng vũ miếu, tác giả Phạm Sư Mạnh lại nhấn mạnh quan niệm của mình về thời cuộc, về sự xoay vần của tạo hoá: “Kỉ đa cái thế bạt sơn lực,/ Tận tại nhàn hoa dã thảo trung.” (Biết bao chí trùm đời, sức nhổ núi,/ Đều nằm trong đám hoa dại và cỏ đồng). . . Cá biệt Hạng Vũ hay muôn một anh hùng cao vọng xây mộng nghiệp đế vương thành bại, cuối cùng cũng chìm vào cõi nhớ quên trời đất và nhân sinh. Danh tích xưa, nay đã thành phế tích hoang sơ, tiêu điều, anh hùng nuốt hận nghìn thu. Chỉ có thiên nhiên là còn mãi. 2.3. Thơ xướng họa đối đáp Thơ xướng họa đối đáp của sứ thần nhà Trần biểu hiện tài năng, cốt cách và ứng xử văn hóa của người Việt trên đất Trung Hoa. Đi sứ, mỗi nhà ngoại giao phải đối diện với nhiều thử thách, khó khăn. Song cam go nhất là cuộc đấu trí với triều đình phong kiến phương Bắc. Sơ hở một chút thôi, tính mạng sứ thần có thể bị đe dọa, Tổ quốc cũng có thể “lâm nguy”. Các sứ thần đều làm thơ đối đáp với vua quan Thiên triều để tỏ rõ khí phách, tài trí của mình, của quốc gia, dân tộc. Những vần thơ đối đáp, họa vận của sứ thần Đại Việt đã làm cho vua quan thiên triều nể sợ, khâm phục. Cha ông ta đi sứ có khá nhiều tấm gương như thế. Năm 1314, Nguyễn Trung Ngạn đi sứ Trung Hoa, khi uống rượu, giao tình văn chương cùng người bạn Mạc Cửu Cao ở Ung Châu, thi nhân họ Nguyễn vẫn không quên ý thức trách nhiệm của sứ thần: “Nghĩ tương huân nghiệp thù tiền trái/ Khẳng vị ưu nguy phụ thốn tân” (Họa Nhân Kiệt vận - Nghĩ đem huân nghiệp báo đền nợ trước/ Há vì lo sợ nguy hiểm mà phụ tấc lòng). Năm 1335, Nguyễn Cố Phu đi sứ nhà Nguyên, trước yêu cầu của quan Thiên triều, ông đã ứng khẩu một bài thơ cổ phong Bắc sứ ứng tỉnh đường mệnh, tịch thượng phú thi ngay giữa tiệc rượu. Dù bài thơ mang đậm tính xã giao, thù tạc nhưng cũng đã thể hiện rõ khí phách, bản lĩnh và trí tuệ Đại Việt: “Thánh triều thiên tử chí minh triết/ Cổ quăng phụ bật câu lương hiền/. . . / Khởi duy ngã bối thụ kỳ tứ/ Hà hoang lạc nghiệp trường miên miên” (Thiên tử của thánh triều rất sáng suốt/ Những kẻ phò ta thân cận đều là bậc hiền lương/. . . / 47 Trần Thị The Nào chỉ có lớp chúng tôi mới được ban ơn huệ/ Những nơi xa xôi hẻo lánh cũng mãi mãi an cư lạc nghiệp). Con người công dân bản lĩnh, khí phách, trí tuệ thời Trần được thể hiện sinh động qua bài Bắc sứ đăng Hoàng Lâu tẩu bút thị Bắc sứ thị giảng Dư Gia Tân khi Phạm Sư Mạnh đi sứ năm 1345. Bài tẩu bút mang hơi thở hào hùng chói lọi của “Hào khí Đông A” ba lần đánh thắng quân Nguyên – Mông: “Ngã gia viễn tại Giao Nam đẩu/ Thủ trì ngọc tiết đăng Hoàng lâu/ Ma sa thạch khắc Pha công tự /Như kim bất phụ bình sinh du” (Nhà ta ở tận Giao Nam đẩu/ Tay cầm tiết ngọc lên Hoàng lâu/ Sờ chữ Pha công trên vách đá/ Không uổng bình sinh cuộc viễn du). Bốn câu thơ khép lại, nhưng lại mở ra thi hứng đẹp. Cái đẹp toát lên từ tâm thế tự tin, kiêu hãnh; từ bản lĩnh đĩnh đạc pha chút cao ngạo của một du khách đặc biệt – một chân dung khả kính Phạm Sư Mạnh. Ông dõng dạc giới thiệu quê hương xứ sở phương nam bằng đại từ nhân xưng: “Ngã gia (Nhà ta). Như thế, ông cũng nhằm tuyên bố cho người phương Bắc hãy tri nhận rõ rằng: đấy là nhà ta, là cõi trời Nam của người Việt ta, người Việt ta là chủ nhân. Nó hoàn toàn riêng biệt, chẳng liên quan gì đến cương vực Bắc quốc. Đọc Phạm Sư Mạnh, không thể không phảng phất tinh thần của ý thơ Nam quốc sơn hà ngày trước hay Đại cáo bình Ngô sau này. Ở ba dòng thơ tiếp theo, họ Phạm nhân danh một công thần Đại Việt thay mặt quân vương, thay mặt dân tộc mình với tư cách một nhà bang giao, nhưng cũng là người yêu cái đẹp. Thời Phạm Sư Mạnh đi sứ không gặp thảm cảnh “áo rách, nón mê tàn” như một số sứ giả thế kỉ XVI sau này. Qua tâm thế sứ giả/ chính khách nước Nam, tư thế dân tộc được tôn vinh. Có thuyết cho rằng, năm 1345, Phạm Sư Mạnh được cử sang sứ nhà Nguyên tranh biện về cột đồng Mã Viện thời Hai Bà Trưng. Nhờ sự kiện đó, sau này nhà Nguyên không tra vấn nữa. Thế cục thay đổi như vậy chẳng phải là nhờ đấu tranh ngoại giao khôn khéo, bản lĩnh của sứ thần Đại Việt – “toàn quân mệnh, tráng quân uy” đó sao! Các sứ thần Việt Nam làm thơ khi giao tế, nhưng những vần thơ ứng đối thù tạc của tác giả không nặng nề, công thức, khô khan. Điều này cũng là nét riêng trong thơ đi sứ của thi nhân. Thơ xướng họa, thù tiếp vì thế “tách” dần mục đích chính trị, ngoại giao, sáp gần và hòa nhập dần vào địa hạt của văn chương nghệ thuật. 3. Kết luận Với số lượng ít ỏi, nhưng thơ đi sứ thời nhà Trần là một di sản cha ông lưu lại cho hậu thế. Quá khứ và hôm nay được nối lại, con cháu hiểu thêm, để khắc sâu, giữ gìn, phát huy truyền thống. Nhờ vào những vần thơ, người đời hiểu rõ hơn chân dung sứ thần – đại gia văn chương trong giai đoạn văn học đời Trần. Tập trung những đề tài cơ bản: đề vịnh thiên nhiên, cảnh sắc đất nước Trung Hoa; đề vịnh lịch sử - văn hóa nước bạn; thơ xướng họa đối đáp với đại quan Thiên triều, các sứ thần Việt Nam đã thể hiện tài năng và một tâm hồn rộng mở. Ở thơ về thiên nhiên, cảnh vật, hiện hữu sứ thần tinh tế, một tâm hồn giàu cảm xúc. Qua sáng tác về lịch sử - văn hóa, lại nhận ra những con người tự tin, có tư duy độc lập, có cái nhìn “biện chứng” trước những giá trị, trước qui luật muôn đời. Qua thơ xướng họa, đối đáp cùng những ứng xử trong văn hóa bang giao người Việt chứng tỏ văn hiến, hiền tài, tự tôn dân tộc. Đối với dòng thơ sứ trình thời trung đại, thơ đi sứ thời Trần xứng đáng vai trò tiên phong khơi mở. Những cảm hứng chính và hình thức nghệ thuật cơ bản trong sáng tác của các nhà ngoại giao thời này dường như trở thành mẫu mực/xác lập đặc điểm của kiểu thơ đặc biệt – thơ đi sứ/ thơ Hoa trình/ thơ sứ trình. Để rồi, tiếp bước các sứ thần thời này, cha ông ta thuở xưa đã đi trên con đường thơ đó suốt bảy thế kỉ. Họ làm nên một dòng thơ hoa trình nhiều thành tựu, làm giàu có, đa sắc cho nền văn học/ văn hiến nước nhà. 48 Thơ đi sứ nhà Trần TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Phan Huy Chú, 2014. Lịch Triều hiến chương loại chí, tập 5. Nxb Trẻ, Hồ Chí Minh, tr. 180. [2] Lê Quý Đôn, 2013. Kiến văn tiểu lục, tập 1. Nxb Trẻ, Hồ Chí Minh, tr. 240. [3] Nhiều tác giả, 1981. Văn học Việt Nam trên chặng đường chống phong kiến Trung Quốc xâm lược. Viện văn học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 98. [4] Phạm Thiều, Đào Phương Bình, 1993. Thơ đi sứ. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 10. ABSTRACT Envoys poet Tran Tran Thi The Faculty of Philology, Hanoi National Univesity of Education Poetry is the poetry porcelain angels Dai Viet was composed on the road to do the job porcelain diplomacy between Vietnam and China starting from the thirteenth century and ended in the nineteenth century. In it, envoys poet Tran played a pioneering role. Envoys poet Tran off the financial resources to go porcelain line medieval poetry: poems written in Chinese nature poetry written about the history of Chinese characters, graphics poetry initiative, to meet with Chinese officials. Keywords: Envoys poetry, diplomatic poetry, diplomats, Tran, XIII century. 49
File đính kèm:
- tho_di_su_nha_tran.pdf