Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
Từ khi VN mở cửa thị trường ngân hàng, tài chính, hoạt động của hệ thống ngân hàng VN đã bộc lộ nhiều vấn đề bất ổn mang tính hệ thống, đó là: sở hữu chéo, thanh khoản kém, nợ
xấu tăng cao, chất lượng quản trị điều hành hạn chế, sản phẩm dịch vụ
nghèo nàn, mà nếu không có biện pháp can thiệp kịp thời sẽ có nguy
cơ xảy ra rủi ro mất an toàn hệ thống. Vì thế, bài viết đánh giá thực trạng
tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) VN giai đoạn 2008
- 2012, từ đó đề xuất giải pháp nhằm đóng góp cho quá trình tái cấu trúc
hệ thống NHTM VN trong thời gian tới. Trong bài viết, tác giả sử dụng
phương pháp thống kê, phân tích để củng cố cho kết luận của mình.
hành thanh tra đánh giá, phân loại, phân nhóm ngân hàng thương mại dựa vào các tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá ngân hàng tốt, an toàn. Nhóm những ngân hàng kém nhất, không đáp ứng các tiêu chuẩn đánh giá sẽ bị buộc chấm dứt hoạt động, sáp nhập vào các ngân hàng có tình hình tài chính tốt hơn. Nhóm ngân hàng có khả năng phục hồi và nhóm ngân hàng có tình hình tài chính tốt được khuyến khích sáp nhập để hình thành ngân hàng mới có quy mô lớn hơn, hoạt động hiệu quả hơn. Thứ hai, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hành lang pháp lý: các cấp quản lý cần xây dựng hành lang pháp lý về hoạt động ngân hàng thật công khai, minh bạch và công bằng để tạo điều kiện cho PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 14 (24) - Tháng 01- 02/201430 Hoạt Động NH Hướng Tới Hồi Phục & Hoàn Thiện các NHTM được bình đẳng trong cạnh tranh, đảm bảo an toàn hệ thống đồng thời cải thiện niềm tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng; đưa vào thực hiện các tiêu chuẩn quản trị mới, các quy định về an toàn và phòng tránh rủi ro theo thông lệ quốc tế; hình thành môi trường kinh doanh lành mạnh, xóa bỏ phân biệt đối xử giữa các NHTM. Thứ ba, nâng cao vai trò định hướng, quản lý, giám sát của NHNN và Chính phủ. Việc giám sát của NHNN và Chính phủ đối với các NHTM phải được tiến hành thường xuyên – liên tục, linh hoạt và hỗ trợ các tổ chức được giám sát, đảm bảo tính hệ thống, phối hợp các chính sách hiệu quả và hợp tác với quốc tế trong giám sát tài chính để các ngân hàng hoạt động an toàn, hiệu quả, tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Thứ tư, tiếp tục cổ phần hóa NHTM nhà nước. Việc cổ phần hóa các NHTM nhà nước tạo điều kiện cho các ngân hàng này chủ động hơn trong hoạt động của mình: nâng cao năng lực tài chính, cải thiện chất lượng dịch vụ, gia tăng sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động để thực sự trở thành những ngân hàng nòng cốt trong hoạt động của hệ thống NHTM VN. Thứ năm, phối hợp có hiệu quả việc tái cấu trúc hệ thống NHTM với việc phát triển mạnh các thị trường tài chính: thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm và các quỹ đầu tư theo những tiêu chuẩn quốc tế để đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Thứ sáu, tiếp tục chủ động hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng. Quá trình hội nhập này cần phải được tính toán cụ thể sao cho phù hợp với năng lực của các NHTM VN và khả năng quản lý và giám sát của các cơ quan quản lý Nhà nước. Thứ bảy, xử lý vấn đề sở hữu chéo. Vấn đề mấu chốt trong công tác xử lý sở hữu chéo là phải đảm bảo ngăn ngừa hành vi cố tình vi phạm, đồng thời triệt tiêu lợi ích từ việc sở hữu chéo của các cá nhân và tổ chức. Để thực hiện điều này, đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ giữa NHNN và các Bộ ngành liên quan trong việc ban hành các văn bản pháp quy cũng như việc kiểm soát việc thực thi các điều khoản quy định. Nhóm giải pháp từ phía các NHTM Thứ nhất, tăng cường năng lực tài chính. Các NHTM cần chủ động nâng cao năng lực tài chính của mình trên các phương diện chính như: vốn tự có, chất lượng tài sản, thanh khoản, khả năng sinh lời. Để làm được điều này trước tiên các NHTM cần phải từng bước tăng vốn điều lệ bằng các biện pháp: phát hành cổ phiếu cho nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, tự nguyện sáp nhập, hợp nhất với nhau; khi tiến hành đầu tư hay cho vay mới cần tuân thủ đúng quy trình; minh bạch thông tin và trích lập đầy đủ các khoản dự phòng; tuân thủ yêu cầu an toàn trong hoạt động kinh doanh về cơ cấu huy động và cơ cấu cho vay; hạn chế rủi ro, tiết giảm chi phí và nâng cao khả năng sinh lời. Thứ hai, nâng cao năng lực quản trị điều hành. Để nâng cao năng lực quản trị điều hành, các NHTM VN cần tách bạch rõ quyền hạn, trách nhiệm của các ban, trung tâm tại hội sở chính cũng như tăng cường sự phối hợp giữa các ban này với các chi nhánh toàn hệ thống; xây dựng hệ thống cảnh báo sớm và phát triển hệ thống công cụ, chương trình phần mềm phục vụ công tác quản lý rủi ro thị trường, tác nghiệp theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế; tăng cường và nâng cao chất lượng công tác dự báo, nghiên cứu thị trường phục vụ cho công tác quản trị, điều hành nhằm phát triển dịch vụ phi tín dụng; có chính sách đãi ngộ tốt cho những nhà quản lý giỏi để giữ và thu hút nhân tài. Thứ ba, cải thiện chất lượng sản phẩm hiện có và không ngừng phát triển sản phẩm mới. Các NHTM cần phải tận dụng tất cả những lợi thế về nguồn nhân lực, công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm hiện có cũng như không ngừng đưa ra các sản phẩm mới nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khác hàng. Làm được điều này sẽ giúp ngân hàng tạo được niềm tin với khách hàng và giúp ngân hàng ngày càng khẳng định được vị thế của mình trong trên thị trường. Thứ tư, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo hướng nâng cao trình độ chuyên môn, khả năng sáng tạo, khả năng giao tiếp, phong cách làm việc chuyên nghiệp. Để làm được điều này, ngay từ khâu tuyển dụng cần phải đặt ra các tiêu chí cần thiết cụ thể đồng thời kết hợp đào tạo và đào tạo lại thường xuyên cán bộ. Đối với các cán bộ quản lý các cấp có tiềm năng nên có kế hoạch đào tạo, thực tập, trao đổi nhân viên giữa với các ngân hàng uy tín của nước ngoài hoạt động trong và ngoài nước. Thứ năm, tiếp tục đổi mới công nghệ ngân hàng. Trong thời gian qua, mặc dù việc ứng dụng công nghệ ngân hàng của các NHTM VN đã tiến một bước xa nhưng so với các NHTM của các nước tiên tiến trên thế giới thì công nghệ sử dụng ở các NHTM VN còn khá lạc hậu. Do đó, các NHTM VN phải Số 14 (24) - Tháng 01-02/2014 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 31 Hoạt Động NH Hướng Tới Hồi Phục & Hoàn Thiện có kế hoạch cụ thể và tiến hành đổi mới công nghệ nhằm tạo ra những sản phẩm dịch vụ có tính cạnh tranh cao, khả năng bảo mật thông tin tốt để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Thứ sáu, sắp xếp lại mạng lưới một cách khoa học. Suốt một thời gian dài, các NHTM VN đã không ngừng mở rộng mạng lưới mà không chú ý nhiều đến tính hiệu quả, khả năng quản lý, nguồn lực, .. vì vậy đã dẫn đến tình trạng có nơi rất thừa (các thành phố, đô thị lớn), có nơi rất thiếu (nông thôn, vùng xa xôi). Những nơi thừa thì cạnh tranh không lành mạnh để giành giật khách hàng, những nới thiếu thì lãng phí nguồn lực. Vậy nên, trong thời gian tới các NHTM cần phải có giải pháp cụ thể cơ cấu lại mạng lưới như sáp nhập, giải thể, thay đổi nhân sự quản lý, trong điều kiện hạn chế tối thiểu sự xáo trộn, hoang mang về tâm lý đối với đội ngũ nhân sự. 4. Kết luận Tóm lại, có thể nói, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng đã và đang là vấn đề cấp thiết không chỉ đối với riêng ngành ngân hàng mà đối với toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, không chỉ các NHTM, Ngân hàng Nhà nước mà các cơ quan chức năng, bộ ngành đều phải cùng chung tay thực hiện. Mặt khác, đây là một vấn đề lớn nên không thể nóng vội trong quyết định, cần phải tính toán kỹ lưỡng trong từng bước hành động để xây dựng nên một hệ thống ngân hàng phát triển lành mạnh, làm nền tảng cho việc tái cơ cấu toàn bộ nền kinh tếl TÀI LIỆU THAM KHẢO Báo cáo thường niên của các NHTM VN (từ năm 2008 đến năm 2012). Claudia Dziobek, Ceyla Pazarbasioglu (1998), Lessons from Systemic Bank Restructuring, IMF. David S.Hoelscher (2006), Bank Restructuring and Resolution, IMF. Đức Huy (2011), Hệ thống ngân hàng Việt: Rất cần một cuộc “đại tu”!, com.vn/c76/s76-536358/he-thong- ngan-hang-viet-rat-can-1-cuoc-dai-tu. htm, 25/4/2012. Phạm Đỗ Chí (2012), Cải tổ ngân hàng: Mới chỉ “chữa cháy”, vn/kinh-te/vef/62708/cai-to-ngan-hang- -moi-chi--chua-chay-.html, 26/4/2012. Phạm Hằng (2011), Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại, baomoi.com/Co-cau-lai-he-thong-ngan- hang-thuong-mai/126/6956734.epi, 22/4/2012. Trần Sĩ Chương (2012), “Tử huyệt” của hệ thống ngân hàng, vn/vn/chinh-tri/tuanvietnam/71910, 22/4/2012. Sanjay Kalra (2012), Banking System Restructuring, IMF. (Tiếp theo trang 9) Hart, Stuart. (1995), “Does It Pay To Be Green? An Empirical Examination Of The Relationship Between Emissions Reduction And Firm Performance”, Business Strategy and the Environment (September). Heim, G and Zenklusen, O (2005), “Sustainable Finance: Strategy Options for Development Financing Institutions”, Eco: Fact, Stampfenbachstrass, Zurich, 2005. Jan Willem van Gelder, (2006), “Sustainable Banking In Practice: A Closer Look At The Nominees For The 2006 Financial Times Sustainable Banking Awards”, Banktrack., Profundo. Jeucken, M (2001) “Sustainable Finance and Banking, The finance Sector and The Future of the Planet”, Earthscan, London, Jeucken, M and Bouma, J,J (1999) “The Changing Environment of Banks”, GMI Theme Issue, GMI-27, Autumn, 1999. Pravakar Sahoo, Bibhu Prasad Nayak, (2008), Green Banking in India, Institute Of Economic Growth University Of Delhi Enclave North Campus, Delhi. Rutherford, Michael (1994),“At what Point can pollution be said to cause damage to the Environment?”, The Banker, January. Schmidheiny, S and Federico J L Zorraquyn, (1996), Financing Change: The Financial Community, Eco-Efficiency and Sustainable development, Cambridge, MIT Press. Sesit, Michael R, (1996), “Disclosure fails to Meet Needs of Big Investors: Survey Shows Institutions Feel Company Reports Yeild Insufficient Data”, Wall Street Journal. Starogiannis, D (2006), “What is Environmental Responsibility of Banks”, UNEP FI Conference, June. Thompson,-Hilary-J, (1995) “The Role of Financial Institutions in Encouraging Improved Environmental Performance” in Rogers,-Michael-D., ed. Business And The Environment. New York: St. Martin’s Press; London: Macmillan Press; 271-81 UNEP Finance Initiatives (2002), Financial Institution Initiative Signatories, http:/unepfi.net/ fii/signatories_country.htm Xây dựng ngân hàng xanh...
File đính kèm:
- tai_cau_truc_he_thong_ngan_hang_thuong_mai_viet_nam.pdf