Sở hữu chéo trong các tổ chức tín dụng

Sở hữu chéo là quan hệ diễn ra ngày càng phổ biến giữa các doanh nghiệp (DN) trong nền kinh tế, đặc biệt là trong ngành ngân hàng. Sở hữu chéo đã và đang đe dọa đến tính minh bạch, an toàn của hệ thống ngân hàng nói riêng, hệ thống tài chính nói chung. Hiện tại, hầu hết các ngân hàng thương mại (NHTM) đã hoàn thành bước đầu lộ trình cơ cấu lại theo phương án được phê duyệt. Mục tiêu đến năm 2020, chỉ giữ lại 15 - 17 NHTM cổ phần thật sự vững mạnh, đủ năng lực cạnh tranh với các NHTM trong khu vực. Bài viết tập trung làm rõ những nội dung chủ yếu sau: (1) làm rõ những vấn đề lý luận về sở hữu chéo; (2) phân tích, đánh giá thực trạng sở hữu chéo hiện nay trong các tổ chức tín dụng; (3) kiến nghị một số giải pháp khắc phục tình trạng sở hữu chéo

pdf7 trang | Chuyên mục: Tín Dụng Ngân Hàng | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 272 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Sở hữu chéo trong các tổ chức tín dụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
g 
vào hệ thống ngân hàng vẫn chưa được làm rõ. Với 
quy mô vốn điều lệ tăng, các ngân hàng được phép 
huy động thêm tiền gửi trong dân cư và hàng nghìn 
tỷ đồng vốn huy động mới này lại có thể được dùng 
để tài trợ cho những dự án sân sau của chính các cổ 
đông lớn của ngân hàng. 
Ngoài ra, sở hữu chéo làm sai lệch việc đánh giá 
rủi ro của hệ thống ngân hàng vì rất nhiều chỉ số 
dựa trên số vốn tự có như hệ số an toàn (Car), 
hay tỷ lệ vốn tự có/tổng tài sản. Trong khi đó, vốn 
tự có của các ngân hàng không thực chất là có quy 
mô như vậy mà bao gồm cả nguồn vốn ảo do sở 
hữu chéo. Trong những năm gần đây, tăng trưởng 
tín dụng của các ngân hàng liên tục nóng khiến 
hệ số đòn bẩy tài chính tăng lên và hệ số an toàn 
vốn Car giảm, đồng thời tấm đệm để phòng ngừa 
rủi ro là vốn tự có lại mỏng và bị gây nhiễu bởi 
sở hữu chéo. Tất cả những điều đó càng làm trầm 
trọng hơn những khó khăn của hệ thống. Các chỉ 
số không chính xác lại dẫn đến sai lệch cả về quản 
trị ngân hàng cũng như việc giám sát đối với hệ 
thống tài chính.
Sở hữu chéo có thể làm gia tăng việc cho vay 
thiếu kiểm soát. Đối với các doanh nghiệp (hay 
ngân hàng) là cổ đông lớn của ngân hàng, sở hữu 
chéo cho phép một doanh nghiệp (hay ngân hàng) 
có tỷ lệ cổ phần lớn trong các NHTM có thể gây áp 
lực (một cách hợp pháp như qua bỏ phiếu trong 
hội đồng quản trị với vị thế cổ đông chiến lược) 
để ngân hàng này cấp vốn đầu tư vào những dự án 
không đủ tiêu chuẩn của doanh nghiệp hay ngân 
hàng của mình. 
Các quy định về giới hạn tín dụng, phân loại nợ 
và trích lập dự phòng rủi ro của NHNN có thể bị 
làm sai lệch tinh thần bởi sở hữu chéo. Khi khách 
hàng doanh nghiệp không trả được nợ cho ngân 
hàng, thay vì xếp khoản vay thành nợ xấu và trích 
dự phòng rủi ro theo quy định, ngân hàng a giấu 
nợ xấu của mình bằng cách không khai báo nợ xấu 
mà nhờ ngân hàng B (ngân hàng a có sở hữu) cho 
vay để đảo nợ. Đây cũng là một trong những lý do 
khiến NHNN khó nắm được chính xác số nợ xấu 
của toàn bộ hệ thống ngân hàng.
3. Một số khuyến nghị khắc phục tình trạng 
sở hữu chéo 
(1) Tách bạch sở hữu với giám sát của Ngân hàng 
Nhà nước trong hệ thống ngân hàng và công khai 
minh bạch thông tin
NHNN cần độc lập trong việc giám sát hoạt 
động của các NHTM, trước hết cần tách bạch 
22
Minh baïch hoùa hoaït ñoäng taøi chính tín duïng - nôï xaáu vaø sôû höõu cheùo
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 116 - tháng 6/2017
giữa vai trò đại diện sở hữu với vai trò quản lý và 
giám sát của NHNN đối với các NHTMNN. Đối 
với NHTMNN đã cổ phần hóa, các quyết định 
của cơ quan đại diện sở hữu cần phải được thực 
hiện thông qua đại hội cổ đông với quyền bỏ phiếu 
tương ứng tỷ lệ sở hữu. Các thông tin tài chính và 
quản trị của các ngân hàng cần phải được công 
khai và minh bạch.
Nâng cao vai trò và trình độ, quyền hạn và trách 
nhiệm của thanh tra, giám sát ngân hàng, đảm bảo 
sự ổn định, an toàn và bền vững của cả hệ thống 
ngân hàng, đánh giá sát thực hiện trạng tài chính 
cũng như thực trạng cổ đông NH để làm rõ việc sở 
hữu chéo NH. Trong đó, phương pháp thanh tra, 
giám sát cần chuyển từ thanh tra, giám sát tuân thủ 
là chủ yếu sang thanh tra, giám sát theo mô hình 
quốc tế (CaMELS) để có thể giám sát từ vốn, thanh 
khoản, chất lượng tài sản có, quản trị, lợi nhuận, 
mức độ rủi ro Bên cạnh đó, NHNN nên sớm ban 
hành các quy định pháp luật liên quan đến vấn đề 
sở hữu chéo để hệ thống NH hoạt động minh bạch, 
lành mạnh hơn.
Thúc đẩy việc công khai, minh bạch thông tin 
và phát triển công nghệ trong hệ thống ngân hàng. 
Nâng cao năng lực quản trị rủi ro và năng lực tài 
chính, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy 
kiểm soát, kiểm toán nội bộ. Cơ cấu lại hoạt động 
ngân hàng theo hướng an toàn, hiệu quả, giảm 
thiểu các hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro, tiến tới 
sớm áp dụng tiêu chuẩn quản trị rủi ro Basel III.
Xem xét tăng “room” cho các nhà đầu tư nước 
ngoài vào các NH Việt Nam. Với tiềm lực tài chính 
tăng thêm, năng lực cạnh tranh của các NH cũng 
vì thế sẽ tăng lên đáng kể. Và quan trọng hơn cả, sự 
tham gia của một NH nước ngoài vào một NH Việt 
Nam với tỷ lệ sở hữu thích hợp có thể làm giảm sở 
hữu chéo cũng như đóng góp nhiều hơn trong việc 
xây dựng chiến lược phát triển bao gồm cả việc xử 
lý nợ xấu của NH trong nước.
(2) Đảm bảo tuân thủ triệt để các quy định, mở 
rộng quyền giám sát của các cổ đông sở hữu ngân 
hàng và nâng cao hiệu lực chế tài
 Cần phải có những quy định rõ ràng để ngăn 
ngừa việc thao túng, sử dụng tài sản của ngân hàng 
cho một nhóm công ty liên quan, có như vậy hệ 
thống ngân hàng mới lành mạnh, an toàn và bền 
vững hơn.
(2.1) Khống chế tỷ lệ sở hữu chéo: Cổ đông 
cá nhân không quá 5% vốn điều lệ của TCTD, 
cổ đông tổ chức không quá 15%. Tuy nhiên, mối 
quan hệ giữa NH và các doanh nghiệp tư nhân vẫn 
còn nhiều khoảng trống cần được xem xét. Một cá 
nhân hoặc một doanh nghiệp có thể có ảnh hưởng 
rất lớn đến các hoạt động tín dụng tại NH thông 
qua các công ty con của mình. Những quan hệ sở 
hữu gián tiếp này cần phải được tính đến.
(2.2) Tăng vốn điều lệ: Các ngân hàng có thể 
cải thiện vốn điều lệ thông qua hai con đường: 
đầu tư góp thêm vốn thông qua phát hành thêm 
cổ phiếu và thực hiện mua bán, sáp nhập (M&a). 
Trong khi việc tăng vốn thông qua kêu gọi thêm 
vốn từ nhà đầu tư khó khăn, M&a như là giải 
pháp hữu hiệu trong việc giảm sở hữu chéo hoặc 
đáp ứng trần sở hữu 5%. Nếu như giữa hai TCTD 
đang có quan hệ sở hữu lẫn nhau, việc M&a giữa 
hai tổ chức sẽ xóa bỏ hiện tượng sở hữu chéo và 
qua M&a, vốn điều lệ tăng lên cũng góp phần 
đẩy tỷ lệ sở hữu của cá nhân, TCTD khác đối với 
TCTD sau M&a giảm xuống. 
 (2.3) NHNN cần phải ra thời hạn rõ ràng, quyết 
liệt trong việc yêu cầu các ngân hàng thoái vốn tại 
những ngân hàng khác, doanh nghiệp theo quy 
định. Các ngân hàng thương mại phải khai báo một 
cách trung thực, chính xác việc họ sở hữu cổ phần 
của các ngân hàng khác, hay các doanh nghiệp là 
bao nhiêu, nếu khai gian phải có chế tài xử lý.
23NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 116 - tháng 6/2017
Với giải pháp này, NHNN sẽ hạn chế được sở 
hữu chéo, minh bạch hóa cơ cấu cổ đông, đảm bảo 
các cổ đông lớn tại tổ chức tín dụng có đủ năng lực 
tài chính, tránh trường hợp nguồn vốn góp là vốn 
“ảo” do chủ yếu từ nguồn vốn vay tại tổ chức tín 
dụng, giúp cho hệ thống hoạt động lành mạnh, an 
toàn và thực chất.
(2.4) Cần luật hóa các hình thức đầu tư lòng 
vòng, tăng vốn ảo cho các tổ chức tín dụng, lừa dối 
cơ quan chức năng. Đồng thời, chú trọng việc nâng 
cao trình độ cho cán bộ làm thanh tra, kiểm tra, 
kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử về các hoạt động 
sở hữu chéo, phát hiện các công ty sân sau... để 
nâng cao chất lượng phòng ngừa, phát hiện, ngăn 
chặn, xử lý các hành vi vi phạm liên quan để sở hữu 
chéo, lợi ích nhóm. Quy định cấm tình trạng đầu 
tư “lòng vòng” giữa các ngân hàng với nhau (theo 
kiểu ngân hàng a đầu tư vào ngân hàng B, ngân 
hàng B đầu tư vào ngân hàng C và ngân hàng C lại 
quay lại đầu tư vào ngân hàng a). Nếu hiện tượng 
này bị phát hiện, cần có các chế tài theo hướng xử 
lý hình sự. Trong đó, để xử lý các mối quan hệ sở 
hữu chéo hiện tại, phần sở hữu chéo giữa các tổ 
chức tín dụng có thể được nhượng lại cho các trung 
gian độc lập, trong đó ưu tiên đầu tư của các định 
chế tài chính, ngân hàng nước ngoài.
 (3) Đề nghị Kiểm toán nhà nước kiểm toán vốn 
để xác định lại vốn tự có
Vì sở hữu chéo có thể tạo ra tình trạng vốn ảo 
trong các ngân hàng, làm cho việc đánh giá năng 
lực tài chính, đặc biệt là năng lực vốn tự có thực 
sự của các ngân hàng không chính xác. Do vốn tự 
có là một cơ sở hết sức quan trọng để làm căn cứ 
xác định các giới hạn đảm bảo an toàn khác trong 
hoạt động ngân hàng như giới hạn cấp tín dụng 
cho khách hàng, giới hạn gia tăng tài sản có thông 
qua hệ số Car, giới hạn góp vốn, mua cổ phần...
Nếu vốn tự có không được tính toán và xác 
định một cách chính xác thì các chỉ tiêu đảm bảo 
an toàn được tính dựa trên cơ sở vốn tự có không 
còn giá trị nữa.
Vì vậy, cần thực hiện kiểm toán các nội dung 
liên quan đến vốn tự có như các nguồn tài chính 
hình thành nên vốn tự có (như giá trị thực của vốn 
điều lệ, các quỹ dự trự của ngân hàng). Thông 
qua đó nhằm đánh giá năng lực vốn tự có thực sự 
của bản thân từng ngân hàng; kiểm toán các vấn 
đề nợ xấu thông qua việc trích lập dự phòng rủi ro 
tín dụng. 
Vì thế, cần kết hợp kiểm toán toàn diện hoạt 
động ngân hàng, không chỉ bao gồm kiểm toán báo 
cáo tài chính mà còn phải kết hợp kiểm toán hoạt 
động và kiểm toán tuân thủ, để đánh giá tình trạng 
tài chính thực sự của các ngân hàng để làm cơ sở 
lập đề án tái cấu trúc ngân hàng và thực hiện tốt các 
biện pháp xử lý phù hợp, không gây ra những tổn 
hại với nền kinh tế và ngân sách nhà nước.
4. kết luận
Các TCTD có tỷ lệ sở hữu vượt Thông tư 36 đã 
thoái vốn hoặc các TCTD đang có sở hữu của một 
TCTD khác bị vượt đã tăng vốn điều lệ thông qua 
phát hành cổ phiếu và/hoặc M&a với TCTD khác, 
có thể là ngân hàng hoặc công ty tài chính.
Bức tranh sở hữu chéo của hệ thống ngân hàng 
Việt Nam tuy đã giảm nhưng vẫn còn một số 
trường hợp chưa đáp ứng được Thông tư 36 do các 
điều kiện khó khăn của thị trường chứng khoán, 
thu hút nhà đầu tư, trong đó có nhà đầu tư nước 
ngoài. Nghiên cứu cho rằng trong tương lai cần 
hướng tới việc giảm các động lực tham gia vào mối 
quan hệ sở hữu chéo trong hệ thống TCTD, đặc 
biệt tiếp tục thu hút nhà đầu tư chiến lược nước 
ngoài tham gia tái cơ cấu hệ thống ngân hàng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tra cứu thông tin về sở hữu trên www.cafef.vn.
2. 
so-huu-cheo---loi-hen-voi-Thong-tu-36.html.
3. Adams, M., 1999, Cross Holdings in 
Germany, Journal of Institutional and 
Theoretical Economics.
4. Alberto, O. and Alessia, P., 2009, Ownership and 
control in Germany: Do cross-shareholdings 
reflect bank control on large companies?, 
Corporate ownership and control.

File đính kèm:

  • pdfso_huu_cheo_trong_cac_to_chuc_tin_dung.pdf