Phát triển các dự án BOT cho ngành điện tại Việt Nam: Tồn tại và nguyên nhân
Tóm tắt
Để thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thì việc đầu tư và phát triển cơ
sở hạ tầng ngành điện luôn được ưu tiên hàng đầu. Tuy nhiên để xây dựng các nhà máy điện đòi hỏi vốn
rất lớn, thời gian thu hồi vốn dài. Một trong các hình thức đầu tư được nhà nước ưu tiên phát triển là
BOT. Việc đánh giá thực trạng, chỉ ra các nhân tố tác động đến sự phát triển của các dự án điện, tìm ra
các tồn tại và nguyên nhân để giúp các nhà hoạch định chính sách đưa ra quyết định phù hợp để phát
triển các dự án BOT cho ngành điện là cần thiết.
nhân tố hiện chưa được Việt Nam chú trọng đúng mức và gây ảnh cản trở tới việc thu hút tài trợ dự án (1) Có sự tham gia của các tổ chức tài chính lớn, quy mô quốc tế; (2) Nhà thầu và nhà điều hành có kinh nghiệm; (3) Sự đồng bộ của quy hoạch; (4) Tồn tại các sản phẩm và công nghiệp phụ trợ cho dự án; (5) Dự báo tỷ lệ lạm phát của Chính phủ đáng tin cậy Các nhân tố này đều đến từ bên trong nền kinh tế, đáng lưu ý là sự đồng bộ của quy hoạch còn quá yếu, các nhà thầu và điều hành kém kinh nghiệm, các dự án không có sản phẩm và dịch vụ phụ trợ và đặc biệt tỷ lệ lạm phát quá cao so với dự báo của nhà nước. Để cải thiện được tình hình này thì Việt Nam cần phải có các cải cách đột phá cả về chính sách kinh tế, chính sách tiền tệ, công tác dự báo cũng như nguồn lực. 4. Một số tồn tại và nguyên nhân trong phát triển dự án BOT ngành điện ở Việt Nam Thứ nhất, tài trợ dự án BOT ở Việt Nam vẫn mang bóng dáng của bao cấp. Hiện tượng đa số các dự án phát triển kết cấu hạ tầng của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua đều do Nhà QUAÛN TRÒ KINH DOANH 93Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 82 (5/2016) nước chỉ định và thực thi thể hiện quan điểm các doanh nghiệp nhà nước vẫn giữ vị trí độc quyền thống trị trong cả lĩnh vực xây dựng cơ bản. Việc chỉ định thầu cho các dự án BOT ở Việt Nam thể hiện cơ chế “xin-cho” giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư. Các dự án BOT trong nước hiện nay được hình thành thông qua đấu thầu chỉ định, nhiều dự án được hình thành thông qua mối quan hệ giữa nhà đầu tư với cơ quan nhà nước có thẩm quyền thậm chí một số dự án do nhà đầu tư cùng Ủy ban tỉnh cùng đề xuất làm đường, làm dự án. Bên cạnh đó, các dự án không có lãi hoặc khó thu hồi vốn trong quá trình thực hiện lại tìm cách chuyển giao sang phía Nhà nước thể hiện sự bao cấp của Nhà nước như cầu Bình Triệu, cầu Phú Mỹ đã chuyển giao lại phía nhà nước trước thời hạn khi nhà đầu tư nhận thấy khó thực hiện tiếp cho thấy Nhà nước vẫn thực hiện chế độ bao cấp. Thứ hai, các dự án đã được coi là thành công vẫn luôn gặp sự cố về công nghệ. Trong thời gian vận hành, nhà máy điện Phú Mỹ 3 đã nhiều lần xảy ra sự cố, dẫn đến thiếu hụt công suất cung cấp cho hệ thống điện như mong muốn. Các sự cố xảy ra vào các năm như 2005, 2007 và mới nhất năm 2011 tiếp tục xảy ra, dù vào tháng 9-2009, công ty BOT Phú Mỹ 3 đã đầu tư 10 triệu USD để nâng cấp và mở rộng nhà máy điện, giúp tăng công suất của nhà máy lên thêm 3%-4%. Trong quá trình vận hành, cũng giống như nhà máy điện Phú Mỹ 3, nhà máy điện Phú Mỹ 2.2 cũng liên tục gặp các sự cố. Điều này thể hiện việc lựa chọn công nghệ chưa thực sự hiện đại, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế. Thứ ba, Việt Nam chưa thu hút được nhiều dự án điện: Mặc dù Chính Phủ Việt Nam đã tiến hành kêu gọi nhà đầu tư nước ngoài, đưa ra nhiều ưu đãi như hưởng thuế suất thu nhập doanh nghiệp chỉ là 10% trong 15 năm, trường hợp dự án có quy mô lớn thì thời gian ưu đãi thuế suất có thể lên đến 30 năm, nhưng đến nay vẫn chưa thu hút được nhà đầu tư. Số dự án đầu tư nước ngoài vào ngành điện Việt Nam chưa nhiều. Đến cuối năm 2015, ngoài những dự án đang hoạt động, Việt Nam mới thu hút thêm được một số dự án sau theo hình thức BOT: ngoài nhiệt điện Mông Dương 2 do tập đoàn AES của Mỹ làm chủ đầu tư và nhiệt điện Vĩnh Tân 1 do tập đoàn Phương Nam của Trung Quốc thực hiện, còn có nhiệt điện Vĩnh Tân 3, Vũng Áng 2 có sự tham gia của công ty One Energy Ventures Limited của Hồng Kông. Các dự án đã đầu tư vào Việt Nam thì có một dự án BOT thất bại (nhiệt điện Bà Rịa-Vũng Tàu của tập đoàn Wartsila), một dự án BOO cũng thất bại là Amata. Chỉ có 2 nhà máy điện Phú Mỹ 2.2 và Phú Mỹ 3 là các dự án BOT nước ngoài thành công, tuy nhiên đều gặp nhiều khó khăn trong quá trình triển khai, đặc biệt là về giá bán điên. Số lượng các nhà máy điện độc lập IPP vẫn quá ít, dẫn đến là chỉ một nhà máy gặp sự cố (như sửa chữa máy biến áp hay các thiết bị khác) nhưng ảnh hưởng tới toàn bộ nguồn cung điện của hệ thống, gây thiệt hại cho nền kinh tế cũng như sinh hoạt của người dân. Bên cạnh đó, các nguồn năng lượng tái tạo rất tiềm năng của Việt Nam như năng lượng mặt trời và năng lượng gió cũng chưa thu hút được đầu tư nước ngoài do giá thành cao hơn giá điện hiện tại của Việt Nam. Do vậy, các nhà đầu tư vào lĩnh vực này cần nhiều ưu đãi từ phía Chính Phủ. Nhưng đến nay thì hành lang pháp lý về năng lượng tái tạo ở Việt Nam còn sơ sài nên chưa khuyến khích được các nhà đầu tư nước ngoài. QUAÛN TRÒ KINH DOANH 94 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 82 (5/2016) Thứ 4 Chất lượng và tiến độ của các dự án BOT nước ngoài vào Việt Nam đều chưa đạt yêu cầu. Mẫu thuẫn vẫn tiếp tục xảy ra trong quá trình vận hành của các nhà máy điện: Hầu hết các dự án BOT điện đều bị chậm tiến độ, kéo dài thời gian đàm phán (BOT Phú Mỹ 3 kéo dài đến 6 năm). Thực tế cũng chỉ ra rằng giá điện nguyên liệu mà các công ty BOT bán lại cho EVN là thấp (hơn 3 cent mỹ/kwh). Điều này bắt nguồn từ việc EVN độc quyền giá điện và mua điện. Nếu điều này không được cải thiện, Việt Nam khó có thể thu hút được các nhà đầu tư lớn, có kinh nghiệm trong ngành điện đầu tư vào. Nguyên nhân Thứ nhất, thủ tục đầu tư còn rườm rà. Đây chính là trở ngại lớn nhất nhà đầu tư phải vượt qua khi quyết định đầu tư. Một dự án BOT thông thường đòi hỏi nhà đầu tư phải thương thảo với hàng chục cơ quan chính phủ và mất hàng năm trời để chuẩn bị. Chính điều này đang cản trở nhà đầu tư và nâng giá thành sản xuất điện lên cao hơn so với thực tế. Thứ hai, là công tác đền bù giải phóng mặt bằng còn nhiều khó khăn. Đây luôn là khó khăn mà các nhà đầu tư, bất kể trong hay ngoài nước, phải đối mặt khi đầu tư một dự án. Bất đồng chủ yếu xảy ra ở giá trị đền bù, do các cơ chế và chính sách của Việt Nam chưa hình thành hoặc không theo kịp sự phát triển, dẫn đến nhà đầu tư thường phải tự xoay sở. Điều này gây sức ép lên tiến độ triển khai của dự án. Thứ ba, đội ngũ nhân lực để thực thi, giám sát, kiểm tra việc tài trợ dự án còn thiếu về số lượng và yếu về kỹ năng cũng như kinh nghiệm trong tài trợ dự án quốc tế. Để có thể tiến tới ký kết thành công một dự án BOT, cả nhà đầu tư, nhà tài trợ và nước chủ nhà sẽ phải trải qua các giai đoạn làm việc, đàm phán tốn kém rất nhiều thời gian, nhân lực và tài chính. Đòi hỏi phải có sự tham gia của các chuyên gia trong lĩnh vực có liên quan bao gồm cả chuyên gia luật, ngân hàng, tài chính, kỹ thuật... Thứ tư, do hệ thống ngân hàng trong nước còn yếu kém ảnh hưởng đến quá trình triển khai dự án cũng như việc thu hút dự án BOT trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng. Như đã trình bày, vốn đầu tư đóng vai trò rất quan trọng trong các dự án. Trong các dự án BOT, chủ đầu tư chỉ có thể bảo đảm tối đa là 30% vốn, phần còn lại phải huy động từ các nhà cho vay thương mại trong nước hoặc nước ngoài, hoặc từ các cổ đông. Tuy nhiên, các ngân hàng trong nước của Việt Nam còn non yếu về tiềm lực tài chính nên không thể đáp ứng được nhu cầu vốn. Các nhà cho vay nước ngoài đòi hỏi cần phải có bảo lãnh, nhưng hệ số tín nhiệm của Việt Nam luôn thấp do các bất ổn kinh tế vĩ mô. Chính những bất ổn đó cũng làm cho các nhà đầu tư tư nhân lo ngại và từ chối đầu tư. Bên cạnh đó Việt Nam đang tồn tại quá nhiều ngân hàng nhưng lại có quy mô vốn quá mỏng so với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới, kể cả đối với các ngân hàng thương mại lớn có vốn của nhà nước. Trong giai đoạn hiện nay, hệ thống ngân hàng lại chịu thêm tác động bất lợi từ việc tái cấu trúc ngân hàng thương mại khi mà nền kinh tế đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức ở trong và ngoài nước. Thứ năm, khu vực tư nhân trong nước còn yếu kém về năng lực tài chính và công nghệ để có thể thực hiện các hợp đồng giao thầu trong quá trình xây dựng và vận hành dự án BOT. Các doanh nghiệp tư nhân luôn thiếu kinh phí để đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, đầu tư nghiên cứu và phát triển. Kỹ năng quản lý và chuyên môn của nhiều doanh nghiệp tư nhân còn yếu kém nên thường phải đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình QUAÛN TRÒ KINH DOANH 95Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 82 (5/2016) tăng trưởng và mở rộng sản xuất. Phần lớn các doanh nghiệp tư nhân chưa có khả năng, điều kiện để tham gia đấu thầu quốc tế. Mặc dù đã nhận thức được về biến đổi khí hậu, môi trường, nhưng vì sự tồn tại và sinh lợi nhuận là mối bận tâm lớn nhất, nên ít doanh nghiệp đưa ra các phương án hành động cụ thể để bảo vệ môi trường gắn với sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Thứ sáu, công tác giải phóng mặt bằng của Việt Nam được đánh giá rất thấp. Tiến độ giải phóng mặt bằng không chỉ rất yếu kém đối với các dự án BOT nước ngoài mà yếu kém với tất cả các loại dự án khác kể cả các dự án trong nước được hình thành từ ngân sách nhà nước. Do vậy Việt Nam cần phải chú trọng điều này trong việc thu hút đầu tư nói chung và đầu tư dưới hình thức BOT nói riêng.q Tài liệu tham khảo 1. Chính Phủ, Nghị định số 15/2015/ND-CP ngày 14/2/2015 về đầu tư theo hình thức đối tác công tư. 2. Nguyễn Thị Thu Hằng, 2012, Luận án tiến sỹ - Học viện Khoa học Xã hội. 3. Nguyễn Thị Thu Hằng, 2011, Những vấn đề đặt ra trong thu hút đầu tư vào ngành điện, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 22, ISSN 08667120, trang 29-31. 4. Nguyễn Thị Thu Hằng, 2011, Thực trạng kết cấu hạ tầng của Việt Nam hiện nay, Tổng quan Kinh tế - Xã hội Việt Nam, ISSN 1859-4522, trang 40-45. 5. Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tóm tắt báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính năm 2007, 2008, 2009, 2010, 2011, 2012 của Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN). 6. Thủ tướng Chính Phủ, 2011, Quyết định số 1208/QĐ-TTG, ngày 21 tháng 7 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020 có xét đến năm 2030.
File đính kèm:
- phat_trien_cac_du_an_bot_cho_nganh_dien_tai_viet_nam_ton_tai.pdf