Phân tích nội dung và đề xuất một số kĩ thuật dạy học hình học trong chương trình môn Toán Tiểu học mới
Abstract: Curriculum analysis is a scientific activity that plays an important role in implementing
education curriculum. In this study, we based on the analysis of general education curriculum in
Mathematics (part for Primary level) to identify some requirements and initially assess visual
geometry content in Primary level. This helps teachers to have notes in the teaching process
approaching to new curriculum, when textbooks under new curriculum have not been published.
u rõ ràng có tính đến sự phát triển nhận thức HH của HS như ở chương trình mới sẽ giúp GV tiến hành thiết kế và tổ chức dạy học đạt kết quả hơn. - Có thể sử dụng sơ đồ Van Hiele trong dạy học HH cho HS: + Sơ đồ Van Hiele là kết quả nghiên cứu của hai nhà giáo dục học người Hà Lan là Pierre Van Hiele và Dina Van Hiele-Geldof về năm mức độ tư duy HH của HS. Phần lớn chương trình dạy HH ở phổ thông của các nước trên thế giới theo quan điểm này. Sơ đồ như dưới đây: Hình 1. Sơ đồ năm mức độ tư duy HH của HS tiểu học [4], [5] Trong đó: Mức độ 1: Trực quan hóa (visualization). Những đối tượng của tư duy ở mức này là những hình vẽ và những điều mà HS trông thấy. Các em có một ấn tượng toàn thể về những đặc trưng trực quan của mỗi hình nhưng không rõ ràng. Các em chỉ nhận biết được các hình vẽ qua sự hiện diện tổng quát (hình tam giác, hình vuông, hình tròn...) nhưng không nhận biết được tính chất của các hình vẽ này. Mức độ 2: Phân tích (Analysis). Những đối tượng của tư duy ở đây là một lớp các hình như nhau chứ không còn là từng hình riêng, cụ thể. HS phân tích được các thành phần cấu thành nên các hình vẽ đó nhưng mối quan hệ qua lại giữa hình vẽ và các tính chất là không thể lí giải được. HS có thể tách ra những thông tin không thích hợp như kích thước và vị trí. Các em bắt đầu biết rằng nếu một hình thuộc lớp “vuông” thì nó có mọi thuộc tính của lớp đó (4 góc vuông, 4 cạnh bằng nhau, các đường chéo vuông góc...). Mức độ 3: Suy diễn không hình thức (Informal Deduction). Những đối tượng của tư duy ở đây là những thuộc tính của các hình. Các em bắt đầu suy luận theo dạng “nếu - thì”, chẳng hạn, “Nếu đó là một hình chữ nhật thì nó có tất cả các góc đều vuông”. HS có thể bắt đầu nghĩ về thông tin tối thiểu cần thiết để định nghĩa những hình; chẳng hạn, hình tứ giác có 4 cạnh bằng nhau và một góc vuông là hình vuông. Các em cũng có thể thiết lập mối quan hệ qua lại của các tính chất trong hình vẽ và giữa các hình vẽ với nhau (một hình vuông là một hình chữ nhật bởi vì nó có tất cả các tính chất của hình chữ nhật). Mức độ 4: Suy diễn (Deduction). Những đối tượng của tư duy ở đây là những mối quan hệ về thuộc tính của các hình. HS có thể khám phá ra các mối quan hệ, nêu ra các giả thuyết và tiến hành khẳng định nếu các giả thuyết đưa ra là đúng. Cấu trúc của những tiên đề, các định nghĩa, các định lí... bắt đầu được hình thành. HS có thể làm việc với những phát biểu trừu tượng và chỉ ra được những kết luận trừu tượng cơ bản hơn trên cơ sở logic. Khả năng có thể phát triển một chứng minh theo nhiều cách cũng được đề cập đến. Mức độ 5: Chính xác (Rigor). Những đối tượng của tư duy ở đây là những hệ tiên đề suy diễn trong HH. Chẳng hạn, HS có thể so sánh và đối chiếu những hệ tiên đề HH khác với hệ tiên đề của HH Euclide, chẳng hạn HH phi Euclide. Việc dạy học HH ở tiểu học chủ yếu dựa trên ba mức độ đầu của sơ đồ Van Hiele và tập trung ở mức độ 1 và mức độ 2. 2.4. Tổ chức dạy học Hình học ở tiểu học phát triển năng lực cho học sinh Tùy từng nội dung dạy học, GV tiến hành quy trình: Bước 1: Giáo viên (GV) giới thiệu (một số) yếu tố trực quan (ở các vị trí, kích thước, màu sắc khác nhau) và hướng dẫn HS quan sát, nhận xét để chỉ ra dấu hiệu bản chất chứa đựng trong yếu tố trực quan đó. Bước 2: Từ dấu hiệu bản chất này, GV hướng dẫn HS trừu tượng hoá để có tri thức HH cần học. Bước 3: Từ hình ảnh trừu tượng, HS hoạt động tạo ra biểu tượng trên vật thật, ứng dụng vào thực tiễn Ví dụ: Dạy về “Góc vuông. Góc không vuông” ở Toán 3 ta thấy GV cần tổ chức cho HS quan sát, nhận biết, mô tả hình dạng và đặc điểm của góc vuông, góc không vuông, HS thực hiện được việc vẽ góc vuông. Sử dụng được êke để kiểm tra góc vuông, góc không vuông. Ở mức độ cao hơn GV có thể tổ chức để HS trải nghiệm gấp được góc vuông, vẽ được góc vuông hoặc vận dụng được việc kiểm tra góc vuông, góc không vuông trong thực tiễn, trong đo đạc ruộng đất, trong xây dựng. Bước 1: GV giới thiệu yếu tố trực quan: GV giới thiệu mô hình các đồng hồ chỉ các thời gian khác nhau như trong hình 1. Cho HS quan sát, nêu được VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 215-221 220 thời gian và nhận xét được: Muốn xác định một thời điểm trên đồng hồ phải dựa vào vị trí của kim phút và kim giờ. Tuy nhiên cần lưu ý rằng ở đây không phải là minh họa cho nội dung nào của đại lượng thời gian mà là hướng HS tới các kim của từng mặt đồng hồ để nhận ra: “Hai kim đồng hồ trong mỗi hình trên tạo thành góc”. Bước 2: Giúp HS trừu tượng hoá thành tri thức HH cần học ở hình 2 Hình 2 Sau đó GV giới thiệu với HS về góc vuông - góc không vuông (Hình 3), HS quan sát hình vẽ, nghe hướng dẫn rồi đọc Hình 3 Bước 3: HS vẽ, gấp, cắt góc vuông, góc không vuông..., nhận ra góc vuông, góc không vuông trong thực tiễn, ứng dụng của góc vuông, góc không vuông trong thực tiễn. Có thể tổ chức cho HS các hoạt động như gợi ý dưới đây: Hoạt động 1. Tổ chức cho HS đọc cá nhân, nhóm đôi, nhóm lớn để nói đúng các từ góc vuông, góc không vuông trên hình ảnh. Đọc đúng từ “cái ê ke”. Nói được: “Cái ê ke dùng để kiểm tra góc vuông”. Biết viết đúng từ “Ê ke”, sử dụng đúng các từ “góc vuông”, “góc không vuông”, đỉnh, cạnh ứng với các trường hợp cụ thể. Cho HS kiểm tra các góc vuông, góc không vuông, tìm số góc vuông trong một hình... Hình 4 Hoạt động 2. Tổ chức cho HS tạo góc, chỉ ra các góc vuông trong hình ảnh cho trước (dạng cảm nhận, không đo), ... Có thể dùng hai cánh tay để biểu diễn góc vuông theo nhiều tư thế, “Tay phải ra trước, tay trái sang ngang”, “ Tay trái ra trước, tay phải sang ngang”, “Một tay nằm ngang, một tay thẳng đứng”, Có thể kết hợp dạy từ ngữ “thẳng đứng”, “nằm ngang”, “tung hoành - ngang dọc” trong ngôn ngữ thông thường. Có thể cho HS tạo hình ảnh góc vuông, góc không vuông từ 2 ngón tay, hai bàn tay, một số động tác trong yoga, thể dục thể thao... 4 HS đứng tạo 4 góc vuông.... Hoạt động 3. Tổ chức cho HS vẽ hình: quan sát mẫu rồi thảo luận cách dùng ê ke để vẽ góc vuông. Hoạt động 4. Tổ chức cho HS ghép hình (chẳng hạn như dưới đây). Bài toán: “Hai miếng bìa nào có thể ghép lại được một góc vuông như hình A hoặc hình B” ? Hình 5 VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 215-221 221 Hoạt động 5. Tổ chức cho HS gấp hình (chẳng hạn như dưới đây). Yêu cầu: Gấp mảnh giấy để tạo ra góc vuông (Gấp cái ê ke) Hình 6 3. Kết luận Muốn triển khai tốt trong thực tiễn việc dạy học các môn học theo tiếp cận phát triển NL cho HS, đạt mục tiêu đổi mới giáo dục phổ thông cần tiếp tục tìm hiểu không chỉ nội dung các mạch kiến thức, nội dung các môn học mà còn cần thiết tìm hiểu các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, cách đánh giá kết quả học tập, thiết bị dạy học, cơ sở vật chất đi kèm. Mục tiêu, nội dung chương trình là yếu tố đầu tiên quyết định thành công của chương trình, tìm hiểu nội dung chương trình để thấy những điểm mới, những yêu cầu của chương trình từ đó tiếp tục tìm hiểu các yếu tố còn lại, xác định những nội dung dạy học cụ thể trong mỗi tiết học. Qua tìm hiểu tin tưởng chương trình và nội dung môn học đáp ứng yêu cầu giáo dục phổ thông. Tài liệu tham khảo [1] Clements, D. H. (1999).”Geometric and spatial thinking in young children”. In J. V. Copley (Ed.), Mathematics in the early years, Reston, VA: National Council of Teachers of Mathematics, pp. 66-79. [2] Bộ GD-ĐT (2018). Chương trình giáo dục phổ thông môn Toán. [3] Hoàng Phê (2018). Từ điển Tiếng Việt. Viện Ngôn ngữ học. [4] Van Hiele, Piem M (1984). A Child's Thought and Geometry. National Science Foundation, Washington D.C [5] Cobb, P., - Steffe, L. P. (1983). The constructivist researcher as teacher and model builder. Journal for Research in Mathematics Education, Vol. 14, pp. 83-94. [6] William F. Burger - J. Michael Shaughnessy (1986). Characterizing the van hiele levels of development in geometry. Journal for Research In Mathematics Education (1986), Vol. 17 (1), pp. 31-48. [7] Phan Trọng Ngọ (2005). Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà trường. NXB Đại học Sư phạm. [8] Đỗ Đức Thái - Đỗ Tiến Đạt - Nguyễn Hoài Anh - Trần Ngọc Bích - Đỗ Đức Bình - Hoàng Mai Lê - Trần Thúy Ngà (2018). Dạy học phát triển năng lực môn Toán tiểu học. NXB Đại học Sư phạm. THỰC TRẠNG TỰ HỌC TIẾNG ANH... (Tiếp theo trang 312) Tài liệu tham khảo [1] Candy, P. (1988). On the attainment of subject- matter autonomy. In D. Boud (Ed.). Developing student autonomy in learning (2nd Edition). New York: Kogan, pp. 59-76. [2] Lê Viết Chung (2018). Nâng cao hiệu quả tự học tiếng Anh của sinh viên Trường Đại học Cảnh Sát Nhân dân. Tạp chí Khoa học Giáo dục - Cảnh sát Nhân dân, số tháng 6. [3] Lê Thị Hồng Lam (2013). Hoạt động tự học Tiếng Anh của sinh viên Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội trong đào tạo theo học chế tín chỉ. Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 11, số 4, tr 574-581. [4] Nguyễn Cảnh Toàn (1999). Luận bàn và kinh nghiệm tự học. NXB Giáo dục. [5] Aoki, N. - R. Smith (1999). Learner autonomy in cultural context: the case of Japan. [6] Dam, L. (1995). Learner Autonomy 3: From Theory to Classroom Practice. Dublin: Authentik. [7] Little, D. (1991). Learner autonomy: Definition, issue and problem, Dublin: Authentic. [8] Littlewood, W. (1997). Self-access: why do we want it and what can it do?. In P. Benson & P. Voller(Eds). Autonomy and independence in language learning, New York: Longman, pp. 79-92 [9] Rhoads, K., - DeHaan, J. (2013). Enhancing student self-study attitude and activity with motivational techniques. Studies in Self-Access Learning Journal, Vol. 4(3), pp. 175-195. [10] Rubakin. N.A (1982). Tự học như thế nào. NXB Thanh niên. [11] Hồ Ngọc Đại (2002). Tâm lí học dạy học. NXB Giáo dục.
File đính kèm:
- phan_tich_noi_dung_va_de_xuat_mot_so_ki_thuat_day_hoc_hinh_h.pdf