Những chuyển biến trong giáo dục nhà chùa ở Miến Điện dưới thời vua Mindon (1853-1878)
Tóm tắt: Trong chặng đường dài dưới chế độ phong kiến, nền giáo dục nhà
chùa được xem là nền giáo dục truyền thống ở Miến Điện do Tăng đoàn –
Sangha quản lý. Nhưng đến giữa thế kỷ XIX, dưới thời trị vì của vua
Mindon (1853-1878), nhà nước đã nắm được quyền quản lý nền giáo dục
này với sự đồng thuận của Tăng đoàn. Vậy vì sao Mindon lại hiện thực được
điều mà trước đó, chưa có vị vua nào ở Miến Điện làm được. Bài viết sẽ làm
rõ những vấn đề này.
với sự thuyết phục thành công Tăng đoàn trong việc chấp nhận các kỳ thi chính thức tiếp tục được duy trì trong và sau triều đại của con trai ông, Thibaw (1878-1885). Lần đầu tiên trong lịch sử, Thibaw cho tổ chức các kỳ thi viết song song với hình thức thi vấn đáp trước đó. Các kỳ thi được tiến hành đến năm 1884, một năm trước khi Thibaw bị người Anh bắt giữ. 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT Dưới thời trị vì của mình, dấu ấn đậm nét nhất mà vua Mindon để lại cho nền giáo dục nhà chùa – nền giáo dục truyền thống ở Miến Điện chính là việc chuyển đổi phương pháp kiểm tra – đánh giá. Khác với các vị vua tiền nhiệm, những tác động, can thiệp mà vua Mindon nói riêng và chính quyền trung ương Miến Điện nói chung tạo ra đối với nền giáo dục tăng viện đã nhận được sự ủng hộ tích cực từ phía Tăng đoàn – Sangha. Sự thành công đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau: Trước hết là ở thời điểm tiến hành cải cách Trước giữa thế kỷ XIX, tình hình chính trị ở Miến Điện không tránh khỏi những rối loạn. Song những rắc rối đó xuất phát chủ yếu chỉ từ tham vọng bành trướng, tranh giành ảnh hưởng giữa các thế lực phong kiến trong khu vực. Và ở một mức độ nào đó, những xung đột ấy không ảnh hưởng quá nhiều đến vị thế của Phật giáo nói chung, Tăng đoàn và giáo dục tăng viện nói riêng ở quốc gia Đông Nam Á này. Tuy nhiên, từ giữa thế kỷ XIX, đặc biệt là khi Hạ Miến Điện rơi vào tay thực dân Anh – một cường quốc ở châu Âu lúc bấy giờ với một tôn giáo khá xa lạ so với đại bộ phận nhân dân Miến Điện, giới Tăng đoàn dường như nhận thấy rõ những đe dọa tiềm tàng đối với vị 114 LÊ THỊ QUÍ ĐỨC trí của Phật giáo trong bối cảnh chủ quyền quốc gia đang đối mặt với những thách thức hết sức nặng nề. Vì lẽ đó, cộng đồng Sangha ở Miến Điện cũng như chế độ phong kiến dưới thời Mindon đã nhận thức về sức mạnh to lớn được tạo ra từ sự thống nhất giữa tôn giáo (Phật giáo) và chính quyền. Từ đó, cả Tăng đoàn và chế độ quân chủ hiện hành đều thấy rõ sự cần thiết của việc tạo ra mối quan hệ gần gũi với nhau thông qua những phối hợp chặt chẽ trong giáo dục nhằm đem lại lợi ích cho cả hai phía, vừa tăng cường sức mạnh dân tộc vừa là con đường hiệu quả để duy trì và phát triển Phật giáo. Thứ hai, sự thành công của Mindon một phần rất lớn được tạo nên từ tài năng, sự khéo léo của vị quốc vương này Những đề xuất thay đổi mà Mindon đưa ra liên quan đến các kỳ thi chính thức không mang tính hình thức, ép buộc, phân biệt (như trong thời gian cai trị của các triều đại phong kiến từ Thalun đến Bodawpaya) mà là những chuyển đổi mang tính bản chất, xóa bỏ những cách biệt, để bản thân người học nhận thấy sự cần thiết của các kỳ thi này, từ đó tạo nên sự đồng thuận của cộng đồng Tăng đoàn Miến Điện cũng như người học. Đối với Mindon, phương pháp kiểm tra – đánh giá với các kỳ thi chính thức được thực hiện với vai trò của chính quyền trung ương không chỉ nhằm thể hiện vai trò kiểm soát giáo dục của Nhà nước mà quan trọng hơn là đáp ứng được nhu cầu học tập, nghiên cứu chuyên sâu với việc tăng cường vị thế, danh tiếng của giới Tăng đoàn Miến Điện. Nhận thức đó của Mindon là một bài học có giá trị đối với bất cứ nền giáo dục nào hiện nay. Một nền giáo dục tiên tiến là một nền giáo dục cung cấp cho người học những thứ họ cần chứ không phải áp đặt những cái mình có. Sự thay đổi của Mindon đối với nền giáo dục nhà chùa ở Miến Điện thể hiện tính linh hoạt cao với những cân nhắc hết sức thận trọng, phù hợp. Việc chuyển đổi các kỳ thi trong nền giáo dục này không chỉ tập trung vào đổi mới giáo trình (trong kỳ thi Vinaya) mà còn quan tâm đến những điều chỉnh về hình thức thi (trong kỳ thi Pathamapyan). Điều này thể hiện sự nghiên cứu, phân tích rất kỹ lưỡng thực trạng của các kỳ thi vốn đang tồn tại lúc bấy giờ của quốc vương Miến Điện. Đây cũng là một kinh nghiệm nữa mà các giáo dục hiện nay có thể học hỏi. Khi tiến hành cải cách, cần dành thời gian đi sâu tìm hiểu những gì là tích cực, những gì là hạn chế. Từ đó mới có thể đưa ra những phương án hiệu quả nhằm tăng cường, phát huy những yếu tố phù hợp và ngăn chặn đi đến loại bỏ những yếu tố kìm hãm, tránh xóa bỏ một cách cơ học, máy móc toàn bộ những gì đã dày công xây dựng. Những bước đi khéo léo đó của quốc vương Mindon đã tạo nên sự đồng lòng giữa Tăng đoàn với chế độ quân chủ trong việc thực hiện công tác giáo dục, góp phần nâng cao dân trí cho nhân dân Miến Điện cũng như xây dựng được một đội ngũ sư tăng uyên thâm kinh kệ nhà Phật. Đây là yếu tố vô hình tạo nên sức mạnh dân tộc với một đội ngũ trí thức khá đông đảo. Nhận thức được tầm quan trọng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần cũng như giáo dục ở Miến Điện cùng với đó là những ưu thế mà cải cách của Mindon mang lại cho nền giáo dục nhà chùa ở đất nước này, chính quyền Anh quyết định duy trì trở lại kỳ thi NHỮNG CHUYỂN BIẾN TRONG GIÁO DỤC NHÀ CHÙA Ở MIẾN ĐIỆN 115 Pathamapyan “như một phương tiện để giành được thiện chí của các nhà sư Phật giáo và đảm bảo sự hợp tác của họ trong công tác giáo dục chung” [6; p. 5]. Trong thực tế, việc thúc đẩy các kỳ thi chính thức dưới thời thuộc địa cũng đã đạt được những kết quả nhất định, thậm chí có phần thành công hơn hơn thời trị vì của vua Mindon bởi khả năng quản lý của chính quyền này6. Tuy nhiên, những cải cách giáo dục mà vua Mindon đưa ra vẫn tồn tại những hạn chế nhất định trong bối cảnh khi mà người Anh đã kiểm soát được Hạ Miến và đang mở rộng ảnh hưởng ra toàn bộ Miến Điện. Những cải cách trên chỉ tập trung vào việc củng cố nền giáo dục truyền thống nhằm lôi kéo sự ủng hộ của tầng lớp sư tăng mà chưa có những chính sách cụ thể và trực tiếp như xây dựng một chương trình giáo dục thế tục song hành với chương trình giáo dục tôn giáo nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nói chung. Nền giáo dục vốn quá nghiêng về học thuật này khó lòng đáp ứng được yêu cầu về nguồn nhân lực mà tình hình mới đặt ra ở Miến Điện từ nửa sau thế kỷ XIX. Có thể nói, nền giáo dục nhà chùa luôn giữ một vị trí rất quan trọng trong nền giáo dục của Miến Điện. Nhận thức được điều đó cũng như sự hỗ trợ không thể thiếu của giới Tăng đoàn Miến Điện, quốc vương Mindon, bằng tài năng của mình, đã đưa ra những cải cách phù hợp nhằm nâng cao chất lượng của nền giáo dục tăng viện, đáp ứng nhu cầu cơ bản của người học cũng như tạo được sự hợp tác tự nguyện của Sangha. Tuy nhiên, đặt trong bối cảnh chế độ phong kiến ở Miến Điện đang phải đối mặt với nguy cơ tồn vong thì những cải cách ấy có lẽ là chưa triệt để trong việc nâng cao tiềm lực của dân tộc. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Education Code (1901). Burma, Superintendent, Government Printing, Rangoon. [2] G. E. Harvey (1945). British Rule in Burma, 1824-1942, London: Faber and Faber. [3] Kelatha (1980). History of Buddhism in Mandalay, Department of Religious Affairs, Rangoon, cit. I. 6 Nếu như dưới thời các vị vua Miến Điện, các kỳ thi chính thức chủ yếu chỉ được tổ chức tại thủ đô, thì dưới thời chính quyền thuộc địa, Pathamapyan được tiến hành đồng thời tại bốn thành phố, đó là Mandalay, Rangoon, Moulmein và Akyab. Các kỳ thi này không chỉ mở cho các nhà sư mà còn cho các nữ tu. Chi phí đi lại của các thí sinh từ nhà đến các trung tâm kiểm tra và ngược lại được Chính phủ hỗ trợ. Do đó, số lượng ứng thí sinh cao hơn đáng kể so với thời gian trước đó. Năm 1905, số lượng thí sinh là 400 người và đến năm 1912 là 1.200 người. Đến những năm 1930, có tới hơn 3.500 thí sinh tham gia kỳ thi Pathamapyan mỗi năm. Khoảng một phần tư đến một phần ba trong số họ đã thành công [7; tr. 22]. Số lượng các cấp trong kỳ thi Pathamapyan ở Miến Điện dưới thời thuộc địa vẫn giữ nguyên như thời trị vì của Mindon và Thibaw với bốn cấp độ: pathamange (sơ cấp); pathamalat (trung cấp); pathamagyi (nâng cao) và pathamakyaw. Tuy nhiên, việc ghi nhận kết quả có một số thay đổi. Mỗi thí sinh sau khi vượt qua mỗi bậc, pathamange, pathamalat và pathamagyi đều được cấp một chứng chỉ do chủ tịch ủy ban kiểm tra ký; và thí sinh đạt được điểm cao nhất ở cấp độ nâng cao, giành được danh hiệu pathamakyaw, sẽ được trao một giấy chứng nhận được ký bởi Thống đốc Trung ương và viên chức thuộc địa cao nhất ở Miến Điện. Bên cạnh giấy chứng nhận, chính quyền thực dân đã áp dụng một loại phần thưởng khác dưới dạng tiền, lần lượt là 50, 75, 100 và 150 rupee cho từng cấp độ. Đối với phật tử, phần thưởng được trao bằng tiền; và đối với tăng ni, họ được lựa chọn hình thức phần thưởng [1; tr. 172-173]. 116 LÊ THỊ QUÍ ĐỨC [4] Khammai Dhammasami (2004). Between Idealism and Pragmatism – A study of Monastic Education in Burma and Thailand from the Seventeenth century to the present, St Anne’s College. [5] Marks, John E. (1917). Forty Years in Burma, London. [6] Report on Public Instruction in Burma1895-1896, Resolution (1896), Superintendent, Government Printing, Rangoon, Burma. [7] Report on Public Instruction in Burma, Quinquennial Report, 1917-1922 (1923), Superintendent, Government Printing and Stationery, Rangoon, Burma. [8] Royal Orders of Burma (1990). Centre of Southeast Asian Studies, Kyoto University, vol 9. [9] Scott (1924). Burma from the Earliest Time to the Present Day, T. F. Unwin Ltd. [10] Thant Myint-U (2001). The Making of Modern Burma, Cambridge University Press. [11] Yegar, Moshe (1972). The Muslims of Burma, Harrassowitz, Wiesbaden. Title: CHANGES IN MONASTIC EDUCATION IN BURMA UNDER KING MINDON (1853-1878) Abstract: In the long time of feudalism, monastic education has been considered the traditional education in Burma with the control of the Sangha. But from the mid-nineteenth century, under the reign of King Mindon (1853-1878), the State gained control of this education with the consent of of the Sangha. So why Mindon realized the thing, before that, there was no king in Burma could do. The following article will focus on these issues. Keywords: Burmese, Mindon, monastic education; formal examination.
File đính kèm:
- nhung_chuyen_bien_trong_giao_duc_nha_chua_o_mien_dien_duoi_t.pdf