Nhạc sĩ Cao Văn Lầu và bài Dạ cổ hoài lang

Cao Văn Lầu (Sáu Lầu) là nhạc sĩ và là tác giả

bài Dạ cổ hoài lang, một bài ca độc đáo và nổi

tiếng nhất trong nghệ thuật ca Cải lương Việt

Nam.

Phần I - Nhạc sĩ Cao Văn Lầu

Cao Văn Lầu sinh ngày 22 tháng 12 năm 1892

tại xóm Cái Cui, làng Chí Mỹ, sau sát nhập với

làng Thuận Lễ trở thành xã Thuận Mỹ, huyện

Vàm Cỏ, tỉnh Long An.

Cuộc đời ông đã trải qua những biến đổi sau:

Vào một đêm tối trời vào năm 1896, có 20 gia

đình nông dân ở xóm Cái Cui, vì không chịu nổi

cảnh nghèo và cảnh hà khắc của các thế lực ở

địa phương nên đã xuống ghe xuồng, chèo

chống về phía Nam để tìm nơi sinh sống. Trong

số này có gia đình Cao Văn Giỏi (Chín Giỏi),

gồm hai vợ chồng ông và sáu đứa con, trong

số đó có chú bé Cao Văn Lầu.

pdf6 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Âm Nhạc | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 267 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Nhạc sĩ Cao Văn Lầu và bài Dạ cổ hoài lang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
câu. Đồng 
thời ông Kiên còn thêm vào hai chữ "dạ cổ", 
thành ra "Dạ cổ hoài lang". Về lời ca, nhạc sĩ 
Sáu Lầu phóng tác theo bài thơ "Chinh phụ 
thán" của nhạc sư Nguyệt Chiếu - trụ trì chùa 
Phật Hòa Bình ở Bạc Liêu. Bài thơ mang âm 
hưởng tích "Tô Huệ Chức Cẩm Hồi Văn" đời 
nhà Tần bên Tàu.'' 
Nhưng theo lời kể của ông Trần Tấn Hưng 
(Năm Nhỏ) và những người đồng môn với ông 
4 
Cao Văn Lầu, thì Sáu Lầu đã soạn được phần 
nhạc trước khi xa vợ. 
Ông Hưng kể: 
Ông Cao Văn Lầu cùng các bạn học đồng thời 
đã được thầy là nhạc sư Lê Tài Khí (Nhạc Khị) 
hướng dẫn sáng tác theo một chủ đề là "Chinh 
phụ vọng chinh phu", được rút ra từ bản Nam ai 
Tô Huệ chức cẩm hồi văn. Lúc đó có nhiều 
người sáng tác, riêng ông Cao Văn Lầu trong 
năm Đinh Tỵ (1917) đã sáng tác một bản nhạc 
22 câu, nhưng gặp phải hoàn cảnh vợ chồng ly 
tán�Vì quá đau buồn nên ông không thể tiếp 
tục đặt lời ca, mãi đến năm sau vợ chồng hàn 
gắn (theo ông Trần Đức Thuận: vì quá nhớ 
thương, vợ chồng ông thi thoảng vẫn lén lút gặp 
nhau, chứ hai người chưa chính thức xum họp. 
Xem lại phần Cao Văn Lầu) lại ông mới có đủ 
tinh thần chỉnh lý bản nhạc. Ông đã theo lời 
khuyên của bạn đồng môn là Ba Chột (tác giả 
bản Liêu Giang, tác phẩm được sáng tác cùng 
thời và cùng một chủ đề vừa nêu trên) bỏ bớt 2 
câu trùng lắp còn lại 20 câu và tiếp tục đặt lời 
ca..." 
Và cũng theo ông Hưng, cái tên Dạ cổ hoài 
lang là của một nhà sư đặt cho bản nhạc: 
"Bản nhạc và lời ca đã sáng tác xong nhưng 
chưa có tên. Lại vừa đến rằm Trung thu (Mậu 
Ngọ 1918) ông Lầu cùng các bạn đến thăm 
thầy luôn tiện đem bản nhạc ra trình. Ông Lầu 
đã dùng chiếc đàn tranh vừa độc tấu một lần và 
vừa đàn vừa ca thêm một lần nữa. Lúc đó, 
ngoài các thầy trò còn có mặt nhà sư Nguyệt 
Chiếu (một người rất tinh thâm Hán học và 
nhạc cổ truyền), chính thầy Nhạc Khị đã nhờ 
nhà sư đặt tên cho bản nhạc vừa tấu và nhà sư 
đã đặt tên là Dạ cổ hoài lang. Vậy, bản Dạ cổ 
hoài lang 20 câu nhịp đôi đã chính thức ra đời 
kể từ đêm đó.'' 
Trần Đức Thuận ở Hội Khoa học lịch sử Bạc 
Liêu, trong một bài viết (sách ghi bên dưới) đã 
kết luận: 
"Bản Dạ cổ hoài lang về nguyên nhân sáng tác 
tuy có dính líu một phần nào với hoàn cảnh 
chia ly của vợ chồng Cao Văn Lầu, nhưng 
nguyên nhân chính vẫn là nhờ sự hướng dẫn 
sáng tác của thầy Nhạc Khị với một tiêu đề định 
sẵn�" 
2.2 Thời điểm ra đời 
Thời điểm ''Dạ cổ hoài lang'' ra đời, ngoài 
những chi tiết khá khác nhau trong lời kể ở 
phần trên, còn có nhiều ý kiến chưa tương 
đồng nữa, kể cả ông Cao Kiến Thiết và Cao 
Văn Bỉnh, là hai người con của cố nhạc sĩ Cao 
Văn Lầu cũng chưa xác định được thời điểm, vì 
có lúc hai ông nói năm 1919 là năm ra đời bản 
Dạ cổ, có lúc hai ông lại nói năm 1919 là năm 
đổi tên Dạ cổ thành Vọng cổ. (3) 
Và theo các nhà nghiên cứu khác, thì: 
-Ông Thành Châu (báo Văn học nghệ thuật, 
tháng 8 năm 1977), nhà thơ kiêm soạn giả cải 
lương Kiên Giang (Báo Long An, ngày 18 tháng 
7 năm 1986), đồng cho rằng bài Dạ cổ hoài 
lang ra đời 1917. 
-Nhạc sĩ Trọng Nguyễn (Kỷ yếu Từ Dạ cổ hoài 
lang, tr.40) Nghệ sĩ nhân dân Ba Vân tức Lê 
Long Vân (Kể chuyện cải lương, 1988, tr. 67), 
nhà nghiên cứu Đắc Nhẫn (Tìm hiểu âm nhạc 
cải lương, Nxb TP. HCM, 1987, tr. 41), hai nhà 
sử học Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế 
(Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb KHXH, 
1992) không cho biết năm khởi thảo, nhưng 
đều nói bài Dạ cổ hoài lang ra đời năm 1818. 
-Nhạc sĩ Trương Bỉnh Tòng (Kỷ yếu Từ Dạ cổ 
hoài lang, Nxb Mũi Cà Mau, 1992, tr. 50), Lâm 
Tường Vân (Đặc san Quí Dậu 1993, Hội Ái hữu 
Bạc Liêu Nam Cali, tr. 28), Nguyễn Tư Quang 
(Tạp chí Bách Khoa số 63'', Sài Gòn, 1959) thì 
năm sinh của bài Dạ cổ hoài lang là năm 1919. 
*Nhà nghiên cứu Toan Ánh nói "vào khoảng 
năm 1920" (Tìm hiểu nghệ thuật cầm ca, Nxb 
Đồng Tháp, 1998, tr. 207-208) 
-Ông Anh Đệ (Nghệ thuật sân khấu, Viện sân 
khấu, 1987, tr. 59) cho rằng năm sinh của bài 
Dạ cổ hoài lang là 1915. 
Tuy nhiên, ý kiến cho rằng bài ''Dạ cổ hoài 
lang'' ra đời ngày 15 tháng 8 (âm lịch) năm Mậu 
Ngọ (nhằm ngày 19 tháng 9 năm 1918) được 
đa số nghệ sĩ Bạc Liêu (4) và nhiều người đồng 
thuận hơn. 
2.3 Nghi vấn 
Ông Nguyễn Tư Quang, tác giả bài báo ''Thử 
tìm xuất xứ bài Vọng cổ'' cho biết: 
5 
''...Thoát thai của bản nhạc vốn là bài thơ có 
dạng như là một bài phú 20 câu lấy nhan đề là 
''Dạ cổ hoài lang''. Bài này do một nhà sư có 
pháp danh Nguyệt Chiếu, không rõ họ tên thật, 
tu trong một ngôi chùa ở làng Hòa Bình, tỉnh 
Bạc Liêu. Bài Dạ cổ ra đời năm 1919...''(tạp chí 
Bách Khoa số 63, 1959, tr. 65) 
Ý kiến này được nhà nghiên cứu Toan Ánh 
đồng thuận, ông viết: 
"Ở chùa Hòa Bình tỉnh Bạc Liêu, có một nhà sư 
pháp danh là Nguyệt Chiếu. Thấy nhà sư nho 
học uyên thâm với tư tưởng ẩn dật, người ta 
đoán chừng là một văn nhân chống Pháp trong 
thời Cần Vương, nay thất thời nên tạm lánh 
mình vào cửa Phật...Tuy đã đi tu nhưng vẫn 
mang nặng tình non nước�nên nhà sư mới 
đem tâm sự mình ký gủi vào bài từ, đề là Dạ cổ 
hoài lang. Và bài thơ này được ông Sáu Lầu 
phổ ra nhạc...'' (Toan Ánh, Tìm hiểu nghệ thuật 
cầm ca, NXB Đồng Tháp, 1998, tr. 207-208.) 
Năm 1989, tại cuộc hội thảo ở Bạc Liêu, nhạc 
sĩ Trương Bỉnh Tòng cũng đã phát biểu: 
"Vào những năm 1950-1952, nhóm sưu tầm 
nghiên cứu dân ca và cổ nhạc Nam Bộ gồm 
nhạc sĩ Quách Vũ, Ngọc Cung và ông. Rất tiếc 
là lúc ấy ông Cao Văn Lầu đang bệnh không ra 
được vùng giải phóng. Nhưng cũng may là 
nhóm tài tử ở Long Điền có người biết rành cho 
hay ông Sáu đã dựa vào bài thơ của nhà sư 
Nguyệt Chiếu mà phổ nhạc. Nhạc của nó là sự 
kết hợp giữa hai bài Hành Vân và Xuân nữ.(Từ 
Dạ cổ hoài lang, Nxb Mũi Cà Mau, 1992, tr.52-
53.) 
Nhưng qua tìm hiểu của ông Trần Phước 
Thuận ở Hội khoa học lịch sử Bạc Liêu (sách 
ghi bên dưới), thì: 
"Ở Bạc Liêu chỉ có một nhà sư pháp danh là 
Đạt Bảo tự Nguyệt Chiếu (1882-1947), trước ở 
chùa Vĩnh Phước An sau dời về chùa Vĩnh 
Đức, hiện mồ mả của nhà sư nằm ở sau chùa 
Vĩnh Đức. Không có chùa nào mang tên Hòa 
Bình như các tài liệu trên đã ghi. Ông vốn là 
tiền bối về nhạc lễ cổ truyền nhưng ông chưa 
bao giờ làm thơ. Các đệ tử của ông hiện còn 
sống đều xác nhận như vậy và chẳng ai nghe 
thầy nói gì về bài thơ trên. Như vậy, cái thuyết 
cho rằng "ông sáu Lầu đã dựa vào bài thơ của 
nhà sư Nguyệt Chiếu để sáng tác ra bản Dạ cổ 
hoài lang năm 1919" là hoàn toàn không có căn 
cứ." 
2. 4 Lời bài ca 
Từ là từ phu tướng, 
Bảo kiếm sắc phong lên đàng. 
Vào ra luống trông tin chàng. 
Năm canh mơ màng. 
Em luống trông tin chàng, 
Ôi gan vàng quặn đau. 
Đường dù xa ong bướm, 
Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang. 
Đêm luống trông tin chàng, 
Ngày mỏi mòn như đá Vọng phu. 
Vọng phu vọng luống trông tin chàng. 
Sao nỡ phũ phàng... 
Chàng là chàng có hay? 
Đêm thiếp nằm luống những sầu tây. 
Bao thuở đó đây sum vầy, 
Duyên sắc cầm lạt phai. 
Là nguyện cho chàng 
Hai chữ an bình an. 
Mau trở lại gia đàng, 
Cho én nhạn hiệp đôi. 
Ông Trần Đức Thuận nhận xét: 
"Bản Dạ cổ hoài lang không dừng lại ở nguyên 
dạng như các bản nhạc cổ khác mà dần dần 
biến đổi hình thức, phát triển thành bản Vọng 
cổ làm thay đổi một phần lớn bộ mặt Cải lương. 
Đây cũng là điều tối ưu của nó, có lẽ là do tiếng 
nhạc du dương và lời ca bình dị rất hợp với 
người Nam Bộ; hình ảnh người chinh phụ ở 
đây đã hòa nhập thực sự vào cuộc đời thường, 
phản ảnh đúng tâm trạng yếu đuối của người 
phụ nữ khi xa chồng, nhất là trong những hoàn 
cảnh bắt buộc phải chia duyên rẽ thúy. Có lẽ 
chính cái "tính thường" này đã làm rung cảm 
người nghe..." 
2.5 Thông tin thêm 
- Bài này được đưa lên sân khấu lần đầu bởi 
gánh hát Năm Tú ở Mỹ Tho, rồi sau đó được 
sử dụng rộng rãi, nhất là trong tuồng cải lương. 
Và cũng vì thế, bản ''Dạ cổ hoài lang'' được 
chuyển dần thành nhiều nhịp. Năm 1924, tăng 
lên nhịp bốn. Từ khoảng 1934 đến 1944, tăng 
lên nhịp tám. Từ khoảng 1944 đến 1954, ''Vọng 
cổ'' tăng lên nhịp 16. Từ 1955 đến 1964, tăng 
lên nhịp 32 rồi nhịp 64 từ năm 1965 đến nay. 
6 
-Nhạc sĩ Cao Văn Lầu là cha đẻ ''Dạ cổ hoài 
lang'' khởi điểm từ nhịp hai. Bản ''Vọng cổ'' từ 
nhịp bốn trở đi, trên những chặng đường phát 
triển, thuộc công trình chung của tài tử bốn 
phương. Và ông tổ cải lương không phải là Cao 
Văn Lầu, vì bản ''Dạ cổ hoài lang'' chào đời 
năm 1918, trong khi sân khấu cải lương ra đời 
khoảng năm 1916. 
Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu 
Long Xuyên, tháng 10 năm 2008. 
Chú thích: 
(1) Bài Cao Văn Lầu có phải ông tổ ngành Cải 
lương? (báo Thanh Niên) tại địa chỉ: 
phai-ong-to-nganh-cai-luong/10869813/107/ 
(2) Bài Bản Dạ cổ hoài lang (nhịp 2) đã ra đời 
như thế nào ? của Trung Tín tại địa chỉ: 
etail-lichsu.tpl/ 
(3) Năm 1919 là năm đổi tên Dạ cổ thành Vọng 
cổ. YÙ kiến này được nhà thơ kiêm soạn giả 
cải lương Kiên Giang đồng thuận (Báo Long 
An'', ngày 18 tháng 7 năm 1986). Tuy nhiên, 
theo bài viết trên báo Thanh Niên (dẫn bên 
trên), thì: ''Trên những chặng đường phát triển, 
khi Vọng cổ hoài lang được nâng lên nhịp 8 (từ 
khoảng năm 1934 đến 1944) thì nó có tên mới 
là Vọng cổ, không còn đuôi hoài lang''. 
(4) Ở Bạc Liêu từ nhiều năm nay, đang lưu 
hành trong giới đàn ca tài tử một bài Văn Thiên 
Trường (đủ ba lớp) nhan đề là "Cuộc đời Cao 
Văn Lầu", trong đó câu 7 và câu 8 như sau: 
''Bản Dạ cổ hoài lang thương nhớ mơ màng, 
gan vàng khắc sâu. Chẳng bao lâu trong tim 
người nhụy nở hoa khai, bực sắc tài nào dễ 
mấy ai, năm một ngàn chín trăm mười tám 
chính thức ra đời...'' 
Tài liệu tham khảo: 
Ngoài những trang web và tài liệu đã dẫn trong 
bài, người soạn còn tham khảo thêm: 
-Trần Phước Thuận, ''Bàn về thời điểm ra đời 
và nguồn gốc của bản Dạ cổ hoài lang'', in 
trong Nam Bộ - Đất và Người tập 2, Nxb trẻ, 
2004, tr 266-271. 
-Trần Đức Thuận, ''Cuộc đời Cao Văn Lầu và 
nguyên nhân ra đời bản Dạ cổ hoài lang'', in 
trong ''Nam Bộ - Đất và Người'', tập 2, NXB Trẻ, 
2004, tr.259-265. 
Nguồn: Chim Việt Cành Nam 

File đính kèm:

  • pdfnhac_si_cao_van_lau_va_bai_da_co_hoai_lang.pdf