Nguyên tắc phát triển đô thị sinh thái tại Việt Nam dưới góc nhìn người làm kiến trúc - xây dựng

1. ĐÔ THỊ SINH THÁI LÀ GÌ?

Đô thị sinh thái là trạng thái ổn định

của đô thị, hướng tới sự thích nghi cao

nhất với điều kiện sống. Việc thúc đẩy quá

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa khiến

cho quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh

chóng. Một mặt quá trình đô thị hóa góp

phần nâng cao chất lượng cuộc sống

nhưng mặt khác đây chính là nguyên nhân

làm gia tăng dân số đô thị dẫn đến mất cân

bằng sinh thái, gây nên tổn thương ngày

càng nghiêm trọng đến môi trường và đe

dọa đến chính cuộc sống đô thị. Do đó đô

thị thích ứng là một vấn đề sống còn của

các đô thị hiện nay trên toàn thế giới cũng

như ở Việt Nam.

pdf5 trang | Chuyên mục: Kiến Trúc Dân Dụng | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 568 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Nguyên tắc phát triển đô thị sinh thái tại Việt Nam dưới góc nhìn người làm kiến trúc - xây dựng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
 thái tự nhiên (theo quy luật 
tự nhiên) và sự biến đổi do các tác động của 
con người. 
+ Nguyên tắc hướng đến: đảm bảo sự 
cân bằng sinh thái trong từng phân hệ, đảm 
bảo chất lượng cuộc sống và chú trọng về 
tính hệ thống - gắn kết trong một tổng thể cấu 
trúc sinh thái hài hòa. 
+ Tính gắn kết: nói đến sự gắn kết các 
yếu tố (tự nhiên, nhân tạo, các hoạt động 
kinh tế xã hội) và quy luật gắn kết để tạo 
thành cấu trúc (không gian), xem xét ở quy 
mô nhỏ (cấu trúc thành phần) đến quy mô lớn 
(cấu trúc đô thị). Sự gắn kết này luôn biến 
đổi theo thời gian trong trạng thái cân bằng 
động, có xu hướng hình thành cấu trúc mới. 
3. ĐÔ THỊ SINH THÁI LÀ 
HỆ THỐNG 
Trong lĩnh vực kiến trúc xây dựng, bên 
cạnh việc xem xét các sự vật và hiện tượng, 
quan điểm đô thị hệ thống đề cập đến mối 
quan hệ giữa chúng, giữa các bước trong quá 
trình tổ chức và xây dựng đô thị. Điều đó đòi 
hỏi người thiết kế phải xem xét đồng thời (cả 
về không gian cũng như thời gian), tác động 
trực tiếp và gián tiếp từ kết quả của những 
quyết định được đưa ra. Kết quả của phương 
pháp tư duy hệ thống trong quy hoạch đô thị 
là thiết kế tích hợp: mỗi giải pháp cụ thể đề 
cập và giải quyết đồng thời nhiều vấn đề 
khác nhau - mỗi giải pháp đó lại là sản phẩm 
của các công việc và yêu cầu đa ngành. Việc 
đánh giá và cải tạo cảnh quan thông qua các 
công cụ như: quản lý, quy hoạch và thiết kế 
đòi hỏi phải nhìn nhận cảnh quan như một hệ 
thống. Do đó, các bộ phận tham gia tổ chức 
đô thị sinh thái phải có những tư duy hệ 
thống để tạo mối liên hệ giữa con người với 
môi trường cũng như sự can thiệp của con 
người vào môi trường, mang đến cho đô thị 
mức độ tương tác cao hơn và có ý nghĩa sâu 
sắc hơn, đó là sự bền vững [3]. Về cơ bản có 
2 hệ thống tác động tới đô thị: 
+ Hệ thống cân bằng là những hệ thống 
cân bằng về động lực. Những hệ thống này 
được sắp đặt trật tự thống nhất với sự kết hợp 
rất nhiều đặc tính. Trong hệ thống cân bằng, 
những hoạt động trước đó đã tạo nên quá 
trình hồi tiếp tích cực. 
Quá trình này đồng thời tiến hóa một 
cách chậm chạp thông qua tương tác ngày 
giữa các bộ phận. 
+ Hệ thống tự tiêu hủy là những hệ 
thống hoàn toàn tự phát, biến đổi nhanh và 
không ổn định. Bên trong hệ thống này, hậu 
 94 TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 
quả do những quá trình của các hệ thống 
trước đó gây nên quá trình hồi tiếp tiêu cực, 
cùng với những xung đột và sức ép bên trong 
và bên ngoài. 
Trên quan điểm tiếp cận hệ thống, tổ 
chức đô thị sinh thái dựa trên các nguyên tắc 
cơ bản: 
Thứ nhất, bảo vệ tài nguyên và môi 
trường phải dựa trên cơ sở nền tảng của hệ 
sinh thái, nghĩa là không quản lý đơn lẻ 
một thành phần nào mà tiếp cận dựa trên 
tính đặc thù của từng hệ sinh thái để đảm 
bảo sự liên kết và cân đối hài hòa của các 
thành phần tự nhiên trong hệ sinh thái vốn 
có của nó, không phá vỡ thành phần cấu 
trúc của hệ sinh thái. 
Thứ hai, trong quản lý đối với bảo vệ 
tŕi nguyęn vŕ môi trýờng so với trýớc đây 
giữa cách nhìn nhận quản lý truyền thống với 
cách nhìn nhận quản lý mới đối với hệ sinh 
thái cần phải được nhìn nhận lại một cách 
khoa học và tổng hợp. 
Thứ ba, xác định lại quan điểm từ 
trước đến nay luôn đề cao đối với con người 
trong hệ thống tự nhiên dẫn đến tàn phá thiên 
nhiên. Do đó phải coi con người như là thành 
phần quan trọng của tự nhiên để điều chỉnh 
hành vi của mình. 
Thứ tư, chú trọng tới đạo đức, khơi dậy 
cái “tâm” của con người đối với thiên nhiên. 
Ngoài ra cần phải lượng giá được tài sản của 
thiên nhiên để có sự so sánh giữa các phương 
án khai thác [4]. 
4. ĐỀ XUẤT NGUYÊN TẮC PHÁT 
TRIỂN ĐÔ THỊ SINH THÁI Ở VIỆT NAM 
Đô thị sinh thái nhằm tạo lập môi 
trường sống đô thị trong đó môi trường nhân 
tạo hài hòa với môi trường tự nhiên, đáp ứng 
nhu cầu con người hướng đến mục tiêu phát 
triển bền vững đô thị. 
Tác giả đề xuất 7 nguyên tắc đóng vai 
trò hướng dẫn tổng quát trong tổ chức đô thị 
thông minh như sau: 
Nguyên tắc 1: Gìn giữ sự đa dạng 
sinh học 
Các hệ sinh thái đạt được sự ổn định 
và khả năng hồi phục thông qua các mạng 
lưới sinh thái đa dạng và phức tạp. Sự đa 
dạng sinh học càng cao thì các hệ sinh thái 
càng ổn định. Sự đa dạng sinh thái của đô 
thị phải được đảm bảo với các hành lang cư 
trú tự nhiên, nuôi dưỡng sự đa dạng sinh học 
và đem lại sự tiếp cận dễ dàng với thiên 
nhiên để nghỉ ngơi giải trí. Ngoài ra, đa 
dạng sinh thái đô thị góp phần tạo ra sức 
sống cảnh quan đô thị, gìn giữ và phát huy 
đa dạng văn hóa. 
Nguyên tắc 2: Hài hòa với các chu 
trình của tự nhiên 
Thiết kế đô thị sinh thái hài hòa với 
các nguyên tắc của tự nhiên nghĩa là luôn 
coi trọng tự nhiên, bảo tồn các nguồn tài 
nguyên và giảm thiểu ô nhiễm thông qua 
các nội dung: cân đối giữa đầu vào (tài 
nguyên, năng lượng, thực phẩm) và đầu ra 
(chất thải, sản phẩm công nghiệp, dịch vụ). 
Bên cạnh đó, cần phải tiếp cận các chu 
trình sinh thái đô thị để tìm ra biện pháp 
tạo ra “cơ chế tự điều chỉnh” hoặc “điều 
chỉnh có điều kiện” một cách hợp lí nhất, 
thay đổi cách sống đô thị và cách sản xuất 
để làm sao cho các dòng vật chất, nguyên 
liệu, năng lượng diễn ra trong chu trình 
khép kín. Cuối cùng cần sử dụng nguyên 
vật liệu cho phù hợp với mục đích sử dụng 
của con người, tái tạo nguồn tài nguyên 
 95 TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 26, tháng 1/2018 
cũng như kết hợp kiến thức, kỹ thuật mới 
vào các quá trình thiết kế. 
Nguyên tắc 3: Đảm bảo tính gắn kết 
giữa các nhân tố cảnh quan 
Tính gắn kết là nói đến sự gắn kết giữa 
các yếu tố tự nhiên, yếu tố nhân tạo, các hoạt 
động đô thị và quy luật gắn kết để tạo thành 
không gian cảnh quan đô thị. 
Sự gắn kết này luôn biến đổi theo 
thời gian trong trạng thái cân bằng động, 
có xu hướng hình thành cấu trúc mới. Tổ 
chức đô thị sinh thái với mục đích là 
không ngừng nâng cao chất lượng sống đô 
thị nhưng không phá vỡ cấu trúc cảnh 
quan tự nhiên. Các yếu tố tự nhiên là nhân 
tố đóng vai trò tạo lập không gian cảnh 
quan đô thị. Do đó, đô thị luôn lấy yếu tố 
tự nhiên làm chủ đạo, các yếu tố nhân tạo 
được tạo ra nhất thiết phải gắn kết một 
cách hài hòa, không lấn át hay đánh mất 
giá trị đặc trưng cảnh quan tự nhiên trên 
cơ sở các nguyên tắc thẩm mỹ, chú trọng 
tính nguyên vẹn của hệ thống vốn là một 
cấu trúc hoàn chỉnh. 
Nguyên tắc 4: Phát triển đô thị phù 
hợp với “ngưỡng” sinh thái môi trường 
Mỗi môi trường sinh thái chỉ thích ứng 
với một giới hạn tác động nhất định, đặc biệt 
là sự can thiệp của con người. Sự tăng hay 
giảm cường độ tác động ra ngoài giới hạn 
thích hợp của hệ sinh thái sẽ tác động đến chất 
lượng môi trường và khả năng tồn tại sinh vật. 
Khi cường độ tác động tới ngưỡng cao nhất 
hoặc thấp nhất so với khả năng chịu đựng của 
môi trường sẽ dẫn đến nguy cơ bị hủy hoại. 
Trước hết, quy mô dân số và phát triển kinh tế 
- xã hội của đô thị cần được giữ ở mức phù 
hợp với khả năng “chịu tải” của môi trường và 
tài nguyên thiên nhiên. Bên cạnh đó, giải pháp 
quy hoạch, mô hình hình thái không gian cảnh 
quan đô thị được lựa chọn trên cơ sở phân tích 
sự phù hợp với các nhân tố môi trường. 
Nguyên tắc 5: Tăng cường kết nối 
không gian cảnh quan bằng các giải pháp 
giao thông “xanh” 
Bố trí quy hoạch và xác định quy mô 
các khu chức năng cảnh quan đô thị (nhà ở, 
khu làm việc, khu dịch vụ, nơi vui chơi giải 
trí...) hợp lý để con người giảm bớt đi lại 
bằng phương tiện cơ giới, tạo điều kiện 
thuận lợi để đi bộ và xe đạp. Giao thông và 
vận tải cần hạn chế bằng cách cung cấp 
lương thực và hàng hóa chủ yếu nằm trong 
phạm vi đô thị hoặc các vùng lân cận, ưu 
tiên phát triển hệ thống giao thông công 
cộng sử dụng năng lượng thân thiện với 
môi trường. 
Nguyên tắc 6: Duy trì và phát triển 
hành lang xanh, mảng xanh và hồ điều hòa 
trong đô thị 
Tổ chức đô thị sinh thái chú trọng tỉ 
lệ diện tích cây xanh cao, hình thành các 
mảng xanh, bãi cỏ bờ sông, khu cây xanh 
cách ly giữa khu dân cư và công nghiệp, hệ 
thống hành lang xanh kết nối các khu vực 
cảnh quan. Tăng cường cây xanh trên các 
trục lộ giao thông để tạo bóng mát, ngăn 
chặn tiếng ồn, bụi và tăng cường trao đổi 
ôxy. Diện tích mặt nước (ao, hồ, sông, 
rạch) cân đối với diện tích dân số đô thị để 
tạo cảnh quan môi trường và khí hậu mát 
mẻ. Chú trọng tổ chức các hồ điều hòa nơi 
có nguy cơ ngập lụt để hạn chế ngập úng 
trong các điều kiện thiên nhiên bất lợi. 
Nguyên tắc 7: Lựa chọn cơ cấu phát 
triển ưu tiên mô hình kinh tế “xanh” 
 96 TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 
Tăng cường các mô hình kinh tế đô thị 
theo hướng sinh thái, tập trung sức lao động 
và công nghệ mới thay vì tập trung sử dụng 
nguyên liệu, năng lượng và nước, nhằm duy 
trì việc làm thường xuyên và giảm thiểu 
nguyên liệu sử dụng. 
Công nghiệp của đô thị sẽ sản xuất 
ra các sản phẩm hàng hóa có thể tái sử 
dụng, tái sản xuất và tái sinh. Các quy 
trình công nghiệp bao gồm cả việc tái sử 
dụng các sản phẩm phụ và giảm thiểu sự 
vận chuyển hàng hóa. 
5. KẾT LUẬN 
Phát triển đô thị sinh thái tại Việt Nam, 
cảnh quan tự nhiên cần được chú trọng và có 
vai trò quyết định hình thái đô thị. Hình ảnh 
yếu tố cảnh quan thiên nhiên luôn hiện diện 
và đã trở thành nhân tố quan trọng trong quá 
trình hình thành cảnh quan các đô thị tại Việt 
Nam. Tổ chức đô thị sinh thái cần phải giải 
quyết mối quan hệ hài hòa giữa các nhân tố 
tự nhiên và nhân tạo, chính nhân tố tự nhiên 
góp phần quan trọng tạo lập giá trị bản sắc 
cho đô thị. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Lê Huy Bá - Lâm Minh Triết (2005), Sinh thái môi trường học cơ bản, Nhà Xuất bản Đại 
học Quốc gia TP Hồ Chí Minh Hồ Chí Minh. 
2. Lê Hồng Kế (1989), “Đề cập bước đầu đến sinh thái trong quá trình quy hoạch và xây 
dựng điểm dân cư Việt Nam”, Luận án PTS. 
3. John L. Motloch (1975), “Introduction to Landscape Design, ASLA” 
4. Nguyễn Thế Chinh (2012), „Kinh nghiệm quốc tế trong công tác bảo vệ tài nguyên môi 
trường‟, Viện chiến lược chính sách tài nguyên,  

File đính kèm:

  • pdfnguyen_tac_phat_trien_do_thi_sinh_thai_tai_viet_nam_duoi_goc.pdf