Nghiên cứu thực nghiệm khả năng chống chọc thủng của sàn phẳng bê tông cốt thép được gia cường bởi cốt sợi kim loại vô định hình
Tóm tắt:
Nghiên cứu này nhằm khảo sát bằng thực nghiệm khả năng chống chọc thủng của sàn phẳng bê tông cốt thép không dự ứng lực khi được gia cường bởi cốt sợi kim loại vô định hình. Kết quả thí nghiệm được so sánh với các giải pháp khác cũng được sử dụng để gia cường tại liên kết cột - sàn như thép đai và bulong chịu cắt. Kết quả thí nghiệm cho thấy việc sử dụng cốt sợi kim loại vô định hình trong bê tông làm tăng khả năng chống chọc thủng và ứng xử chuyển vị của sàn so với giải pháp sử dụng thép đai chịu cắt và bulong chịu cắt.
thí nghiệm này, nhóm nghiên cứu lựa chọn hàm lượng cốt sợi vô định hình được trộn trực tiếp vào hỗn hợp bê tông với hàm lượng là 0,8%. Kích thước hình học và cấu tạo cốt thép của các mẫu thí nghiệm được trình bày trong hình 3. Trong nghiên cứu này, bê tông cốt sợi kim loại vô định hình được sử dụng cho toàn bộ tấm sàn. 1520(9) 9.2017 Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ 10 0 800 200 800 1800 Ø10 @50 Thép cẩu lắp Ø13 Thép cột 4Ø24 B AA A-A 18 00 12 Ø 13 @ 15 0 30 30 12Ø13@150 12 0 10 0 80 0 20 0 80 0 Thép chịu lực Ø13 Thép chịu lực Ø13 200 Đơn vị: mm a. Mẫu tiêu chuẩn sử dụng bê tông thông thường, mẫu sử dụng bê tông cốt sợi kim loại vô định hình 800 200 800 1800 18 00 AA 12 Ø 13 @ 15 0 12Ø13@150 80 0 20 0 80 0 Ø10@50 Thép cẩu lắp Ø13 Column rebars: 4Ø24 30 30 12 0 5010 0 10 0 50Thép chịu lực Ø13 Thép chịu lực Ø13 200 Bulong Ø10 b. Mẫu được gia cường bởi bulong chịu cắt ở đầu cột Ø10@50 Thép cột 4Ø13 Ø10@45 A A 1800 200 800800 8 0 0 2 0 0 8 0 0 1 8 0 0 1 2 Ø 1 3 @ 1 5 0 12Ø13@150 200Thép cẩu lắp Ø13 Thép chịu lực Ø13 Thép chịu lực Ø13 1 2 0 3 0 3 0 1 0 0 1 0 0 A-A c. Mẫu được gia cường bởi thép đai chịu cắt ở đầu cột Hình 3. Kích thước và cấu tạo cốt thép của mẫu thí nghiệm. Thiết lập thí nghiệm Lực tập trung theo phương thẳng đứng được tác dụng tại vị trí đầu cột trên của các mẫu thí nghiệm thông qua thiết bị gia tải là kích thủy lực 500 kN. Cấu tạo và hình ảnh hệ thống thí nghiệm được trình bày ở hình 4, bao gồm bộ phận truyền động, bộ phận điều khiển lực, và thiết bị đo chuyển vị (LVDT) đặt tại vị trí đầu cột dưới. Tải trọng đứng (P) được tác dụng lên mẫu thí nghiệm với vận tốc 0,03 mm/s cho đến khi mẫu bị phá hoại. Chuyển vị (w) của mẫu và lực tác dụng lên mẫu được đo và ghi nhận tại vị trí đầu cột dưới trong suốt quá trình thí nghiệm thông qua một máy ghi dữ liệu. 1620(9) 9.2017 Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ Bộ phận điều khiển lực Thiết bị đo chuyển vị Dầm đỡ Bộ phận truyền động Mẫu thí nghiệm Khung gia tải a. Hình ảnh hệ thống thí nghiệm. b. Cấu tạo hệ thống thí nghiệm. Hình 4. Hệ thống thí nghiệm. Kết quả thí nghiệm và phân tích Kết quả đường cong lực - chuyển vị Kết quả đường cong lực (P) - chuyển vị (w) của các mẫu thí nghiệm được trình bày ở hình 5. Ta có thể thấy rằng, ở mẫu tiêu chuẩn (TC), sau khi đạt giá trị lực lớn nhất (214,8 kN), đường cong lực - chuyển vị sụt giảm một cách đột ngột. Mẫu được gia cường bởi thép đai (TĐ) cũng thể hiện một ứng xử tương tự mẫu TC, tuy nhiên khả năng chịu lực (258,8 kN) cao hơn so với mẫu TC là 20,5%. Mẫu được gia cường bởi bulong chịu cắt cho khả năng chịu lực cao hơn chỉ khoảng 4,6%, tuy nhiên khả năng chuyển vị cao hơn 30,9%, và sau khi đạt giá trị lực lớn nhất, đường cong lực - chuyển vị sụt giảm một cách từ từ. Đối với mẫu thí nghiệm sử dụng cốt sợi vô định hình với hàm lượng 0,8% (ASFs), giá trị lực và chuyển vị lớn nhất tương ứng đạt 277,3 kN và 29,49 mm, tức là cao hơn tương ứng 29 và 72% so với mẫu TC, đồng thời, đường cong lực - biến dạng sụt giảm một cách từ từ sau khi đạt giá trị lực lớn nhất. Điều này chứng tỏ cốt sợi kim loại vô định hình sử dụng trong hỗn hợp bê tông làm tăng khả năng chống chọc thủng và khả năng chuyển vị của mẫu thí nghiệm. Đồng thời, chúng có khả năng kiểm soát các vết nứt sau khi đạt đến trạng thái giới hạn chịu lực, giúp cho các kết cấu không bị phá hoại một cách đột ngột, tương tự như cốt sợi thép truyền thống [17]. 0 50 100 150 200 250 300 0 10 20 30 40 P (k N ) w (mm) TC BL TĐ ASF Hình 5. Quan hệ lực - chuyển vị. Đặc điểm phá hoại mẫu Trong nghiên cứu này, các mẫu thí nghiệm được kê tự do lên các gối tựa đặt ở 4 cạnh của mẫu thí nghiệm. Vì vậy, phần diện tích sàn xung quanh cột sẽ chịu tác dụng của lực chọc thủng cũng như moment uốn lớn nhất. Trong tất cả các mẫu thí nghiệm, các vết nứt đầu tiên được hình thành trong vùng chịu kéo của tiết diện sàn gần vị trí cột, sau đó bề rộng và diện tích vùng nứt tăng dần cùng với sự tăng của tải trọng (hình 6). Hình 6. Đặc điểm hình thái phá hoại mẫu. 1720(9) 9.2017 Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ Hình 6 cho thấy hình mẫu của các vết nứt được quan sát bằng mắt thường tại thời điểm sau khi các mẫu thí nghiệm bị phá hoại. Trong trường hợp các mẫu tiêu chuẩn (TC), bulong chịu cắt (BL), thép đai chịu cắt (TĐ), một số lượng lớn các vết nứt được hình thành xung quanh chu vi cột và gây ra sự phá hoại của vùng bê tông ở bề mặt bên dưới các mẫu thí nghiệm, kéo theo sự phá hoại hoàn toàn mẫu sau đó. Tuy nhiên, trong trường hợp mẫu thí nghiệm với hàm lượng 0,8% cốt sợi vô định hình trong hỗn hợp bê tông (mẫu ASFs), số lượng các vết nứt ít và diện tích cũng như bề rộng các vết nứt hẹp được quan sát sau khi mẫu bị phá hoại. Diện tích vùng phá hoại cũng được đo và thể hiện ở hình 6. Ta có thể thấy rằng, diện tích vùng phá hoại trong trường hợp mẫu ASFs gần bằng với mẫu TC và ít hơn các mẫu còn lại. Ngoài ra, số lượng các vết nứt quan sát được trong mẫu ASFs ít hơn nhiều so với tất cả các mẫu TC, BL và TĐ. Điều này có thể được lý giải bởi sự hiện diện của cốt sợi vô định hình trong hỗn hợp bê tông đã tạo ra hiệu ứng cầu nối (bridging effect) giữa các vết nứt xuất hiện khi bị phá hoại, và làm giảm số lượng các vết nứt lớn cũng như bề rộng khe nứt [17]. Kết luận và kiến nghị Bài báo đã trình bày kết quả nghiên cứu bằng thực nghiệm để khảo sát tính hiệu quả của cốt sợi kim loại vô định hình khi trộn vào trong bê tông đến khả năng chống chọc thủng của sàn phẳng bê tông cốt thép không dự ứng lực. Một số kết luận có thể rút ra từ kết quả thí nghiệm như sau: - Các phương pháp kháng chọc thủng tại liên kết cột - sàn như sử dụng bulong chịu cắt, thép đai chịu cắt, cũng như sử dụng cốt sợi kim loại vô định hình trong hỗn hợp bê tông đều làm tăng khả năng kháng chọc thủng tại vị trí này. - Mẫu thí nghiệm sử dụng cốt sợi kim loại vô định hình trong hỗn hợp bê tông có khả chịu tải trọng chọc thủng tại đầu cột lớn hơn 29% so với mẫu tiêu chuẩn, và lớn hơn so với các mẫu sử dụng các biện pháp gia cường khác. - Diện tích vùng phá hoại trong trường hợp mẫu sử dụng cốt sợi kim loại vô định ít hơn các mẫu còn lại. Ngoài ra, số lượng các vết nứt cũng như bề rộng khe nứt quan sát được trong mẫu ASF ít hơn nhiều so với các mẫu tiêu chuẩn, bu lông chịu cắt, thép đai chịu cắt. Tài liệu Tham Khảo [1] W.P. Graf, M. Mehrain (1992), “Analysis and testing of a flat slab concrete building”, Proceedings of Earthquake Engineering, 10th World Conference, Rotterdam, Netherlands, pp.3387-3392. [2] D.S. Hatcher, M.A. Sozen, C.P. Siess (1969), “Test of a reinforced concrete flat slab”, Journal of the Structural Division (ASCE), 95(ST6), pp.1051- 1072. [3] P.E. Regan (1981), Behavior of Reinforced Concrete Flat Slabs, Construction Industry Research and Information Association, London, UK, Report 89, February, pp.1-89. [4] S. Lips, M.F. Ruiz, A. Muttoni (2012), “Experimental investigation on punching shear strength and deformation capacity of shear-reinforced slabs”, ACI Structural Journal, 109(6), pp.889-900. [5] C.B. Tan, S.C. Lee, S. Teng (2002), “Shear studs in slab-column connections with rectangular column”, Proceedings of the 27th Conference on Our World in Concrete and Structures, Singapore, pp.569-574. [6] M.R. Esfahani (2008), “Effect of cyclic loading on punching shear strength of slabs strengthened with carbon fiber polymer sheets”, International Journal of Civil Engineering, 6(3), pp.208-215. [7] M.M.G. Inácio, A.P. Ramos, D.M.V. Faria (2012), “Strengthening of flat slabs with transverse reinforcement by introduction of steel bolts using different anchorage approaches”, Engineering Structures, 44, pp.63-77. [8] S. Altoubat, A. Yazdanbakhsh, K.A. Rieder (2009), “Shear behavior of macro-synthetic fiber-reinforced concrete beams without stirrups”, ACI Material Journal, 106(4), pp.381-389. [9] M.A. Tantary, A. Upadhyay, J. Prasad (2012), “Influence of steel fibers on the shear strength of concrete”, Journal of Engineering, Computer and Applied Sciences, 1(1), pp.88-92. [10] Lê Khắc Hùng, Trương Hoài Chính (2011), “Sàn phẳng bê tông ứng lực trước căng sau thiết kế theo phương pháp khung tương đương và phương pháp phần tử hữu hạn”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, 4(45), tr.65-74. [11] Trương Hoài Chính, Võ Trang Thắng (2013), “Quá trình sử dụng kết cấu bê tông ứng lực trước tại Việt Nam và những bài học kinh nghiệm”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, 5(66), tr.7-14. [12] Trương Hoài Chính (2016), “Nghiên cứu ảnh hưởng của hình dạng - kích thước mũ cột đến sự làm việc và khả năng chịu lực của sàn phẳng bê tông ứng lực trước”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, 1(98), tr.15-20. [13] H. Kim, G. Kim, J. Nam, J. Kim, S. Han, S. Lee (2015), “Static mechanical properties and impact resistance of amorphous metallic fiber- reinforced concrete”, Composite Structures, 134, pp.831-844. [14] N.H. Dinh, K.K. Choi, H.S. Kim (2016), “Mechanical Properties and Modeling of Amorphous Metallic Fiber-Reinforced Concrete in Compression”, International Journal of Concrete Structures and Materials, 10(2), pp.221-236. [15] ASTM (2012b) C39/C39M-12a, Standard test method for compressive strength of cylindrical concrete specimens, American Society for Testing and Materials (ASTM), WestConshohocken, PA, USA. [16] ASTM (2012b) E8/E8M-12a, Standard Test Methods for Tension Testing of Metallic Materials, American Society for Testing and Materials (ASTM), WestConshohocken, PA, USA. [17] P.B. Sakthivel, A. Jagannathan, R. Padmanaban (2012), “Thin cementitious slabs reinforced with stainless steel fibers”, Journal of Mechanical and Civil Engineering, 4(2), pp.39-45.
File đính kèm:
- nghien_cuu_thuc_nghiem_kha_nang_chong_choc_thung_cua_san_pha.pdf