Nghiên cứu giải pháp đo các tín hiệu phản xạ từ đầu vào anten siêu cao tần sử dụng một số kênh quang điện
Tóm tắt: Bài báo đề xuất một phương án đo các tham số phản xạ từ đầu vào của
anten siêu cao tần, sử dụng thêm một số kênh quang điện. Các anten siêu cao tần
này là các anten vi dải [1], được gắn trên những vị trí, khu vực cùng với thiết bị đo
lường vô tuyến để đo các dao động, biến dạng của đối tượng. Việc bổ sung, kết hợp
một số kênh quang điện sẽ nâng cao được khả năng và chất lượng đo lường.
ại đầu ra của của bộ lọc tần số thấp 15 sẽ như nhau. Ngoài ra, thành phần dòng điện một chiều tại đầu ra bộ lọc tần số thấp 15 sẽ bao gồm các thành phần hiệu pha phụ thuộc vào biên độ của tín hiệu chuẩn và tín hiệu phản xạ về từ đầu vào anten 4, cũng như hiệu pha giữa các tín hiệu này. Sau đây sẽ chỉ ra rằng thành phần hiệu pha của tín hiệu tại đầu ra của bộ tách sóng pha thứ nhất 12 tỷ lệ với 1 1 sinchuan anJ U J U . Ở đây J1 – Hàm Bessel cấp một, Uchuan , Uan – biên độ tín hiệu tại kênh chuẩn và biên độ tín hiệu phản xạ từ anten nghiên cứu 4, Δφ – hiệu pha giữa các tín hiệu. Kỹ thuật điều khiển & Điện tử Bùi Ngọc Mỹ, “Nghiên cứu giải pháp đo các tín hiệu sử dụng một số kênh quang điện.” 114 Chùm ánh sáng đến đầu vào của bộ tách sóng pha thứ ba 18 đi qua tấm nửa bước sóng 11, tấm này làm đảo pha điều chế theo phân cực của các dao động chuẩn theo hướng ngược lại. Do đó, thành phần hiệu pha tại đầu ra bộ lọc tần số thấp 15 của bộ tách sóng pha thứ ba 18 sẽ tỷ lệ - 1 1 sinchuan anJ U J U , có nghĩa sẽ bằng thành phần hiệu pha từ đầu ra của bộ tách sóng pha thứ nhất 12 theo về biên độ, nhưng ngược dấu. Chùm tia sáng đưa đến đầu vào quang của bộ tách sóng pha thứ hai 16 nhờ bộ xoay pha quang thứ hai 17 với độ dài quang lớn hơn ¼ bước sóng vô tuyến so với chùm tia sáng đưa đến đầu vào bộ tách pha thứ nhất 12 và thứ ba 18. Nhờ thành phần hiệu pha tại đầu ra bộ lọc tần số thấp 15, tại đầu ra bộ tách sóng pha 16 sẽ tỷ lệ với 1 1 coschuan anJ U J U . Các tín hiệu từ đầu ra bộ tách sóng pha thứ nhất 12 và thứ ba 18 được đưa đến đầu vào bộ cộng tín hiệu điện đầu tiên 19. Bởi vì thành phần dòng điện một chiều của đi ốt quang 15 trong các bộ tách sóng pha 12 và 18 là như nhau về biên độ và dấu, cho nên chúng được cộng với nhau. Các thành phần hiệu pha của dòng điện máy thu quang 15 tại các bộ tách sóng pha 12 và 18 là như nhau về biên độ nhưng ngược dấu nhau, do đó chúng trừ lẫn nhau tại đầu ra của bộ cộng 19. Do đó, tín hiệu tại đầu ra bộ cộng thứ nhất 19 sẽ tỷ lệ với thành phần dòng điện một chiều của bộ tách sóng pha 12, 16 và 18. Tín hiệu này phụ thuộc vào biên độ tín hiệu tại kênh đo lường, tức phụ thuộc vào biên độ tín hiệu phản xạ từ đầu vào anten nghiên cứu 4, nhưng không phụ thuộc vào pha của nó. Tín hiệu này đưa đến đầu vào của bộ hiển thị 24, được chia độ theo đơn vị biên độ hệ số phản xạ và đưa đến đầu vào thứ hai của các bộ cộng tín hiệu điện thứ hai 20 và thứ ba 21. Các tín hiệu từ đầu ra của bộ tách sóng pha thứ hai 16 và thứ ba 18 được đưa đến các đầu vào đảo đầu tiên của các bộ cộng tín hiệu điện thứ hai 20 và thứ ba 21. Tại các bộ cộng 20 và 21 diễn ra sự bù trừ các thành phần một chiều dòng đầu ra của các bộ tách sóng pha 16, 18, tín hiệu tại đầu ra bộ cộng thứ hai 20 sẽ tỷ lệ với thành phần hiệu pha từ đầu ra bộ tách sóng pha thứ hai 16, nghĩa là tỷ lệ với 1 1 coschuan anJ U J U , còn tín hiệu tại đầu ra bộ cộng thứ ba 21 sẽ tỷ với thành phần hiệu pha từ đầu ra của bộ tách sóng pha thứ ba 16, nghĩa là tỷ lệ với 1 1 sinchuan anJ U J U . Những tín hiệu này được đưa đến bộ chia 22, tại đây diễn ra quá trình chia chúng cho nhau. Nhờ đó, tín hiệu tại đầu ra bộ chia 22 sẽ tỷ lệ với tg(Δφ), nghĩa là tỷ lệ với tang hiệu pha giữa các dao động của kênh chuẩn và kênh đo lường và không phụ thuộc vào biên độ tín hiệu trong kênh đo lường, cũng như tỷ lệ với biên độ hệ số phản xạ tín hiệu từ đầu vào anten nghiên cứu 4. Tín hiệu hiệu pha này được đưa đến bộ hiển thị pha 23. Việc hiệu chỉnh sơ bộ với thiết bị đề xuất có thể được tiến hành nhờ bộ xoay pha quang học thứ nhất 9 ở chế độ hiệu chỉnh, khi đó anten nghiên cứu được thay bởi tải chuẩn với các tham số phản xạ cho trước. Miêu tả làm việc của thiết bị đã chỉ ra khả năng đo tham số phản xạ về biên độ và pha của tín hiệu phản xạ tại các đầu vào của các phần tử hai cực siêu cao tần, giảm độ nhạy tác động của từ trường bên trong. Hiệu pha giữa các nút giao nhau của các tia sáng sau khi đi các bộ điều chế quang điện từ sẽ bằng: Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 42, 04 - 2016 115 φ1 = k1Uchuansinωct + k2Udoluongsin(ωct+ φ) φ2= k1Uchuancosωct + k2Udoluongsin(ωct+ φ) (3.1) φ3 = -k1Uchuansinωct + k2Udoluongsin(ωct+ φ) ở đây, Uchuansinωct – tín hiệu siêu cao tần chuẩn, Udoluongsin(ωct+ φ) – tín hiệu siêu cao tần tại các đầu ra của kênh đo lường, k1, k2 – là các hệ số tỷ lệ, - sự dịch chuyển pha của tín hiệu tại kênh đo lường, bao gồm sự dịch chuyển tại phần tử siêu cao tần nghiên cứu. Cường độ tương đối của tia sáng sau khi đi qua ba bộ điều chế và phân tích quang khi phân cực chéo từ (3.1) sẽ bằng: N1/N0=sin 2[0.5k1Uchuansinωct +0.5k2Udoluong sin(ωct+ φ)] = =0.5 – 0.5{[J0(k1Uchuan)+2 1i J2i(k1Udoluong)сos(2i ωct+ φ)][J0(k2Udoluong) +2 1i J2i(k2Udoluong)сos2i(ωct+ φ)] -4[ 0i J2i+1(k1Uchuan)sin(2i+1)ωct]* *[ 0i J2i+1(k2Udoluong)sin(2i+1)(ωct+ φ)]} N2/N0=sin 2[0.5k1Uchuancosωct +0.5k2Udoluong sin(ωct+ φ)] = =0.5 – 0.5{[J0(k1Uchuan)+2 1i (-1)jJ2i(k1Uchuan)сos(2i ωct)][J0(k2Udoluong) +2 1i J2i(k2Udoluong)сos2i(ωct+φ)]-4[ 0i (-1)jJ2i+1(k1Uchuan)cos(2i+1)ωct]* *[ 0i J2i+1(k2Udoluong)sin(2i+1)(ωct+ φ)]} N3/N0=sin 2[-0.5k1Uchuansinωct +0.5k2Udoluong sin(ωct+ φ)] = =0.5 – 0.5{[J0(k1Uchuan)+2 1i J2i(k1Uchuan)сos(2i ωct)][J0(k2Udoluong) + +2 1i J2i(k2Udoluong)сos2i(ωct+ φ)] + 4[ 0i J2i+1(k1Uchuan)sin(2i+1)ωct]* *[ 0i J2i+1(k2Udoluong)sin(2i+1)(ωct+φ)]} (3.2) Kỹ thuật điều khiển & Điện tử Bùi Ngọc Mỹ, “Nghiên cứu giải pháp đo các tín hiệu sử dụng một số kênh quang điện.” 116 ở đây, Ji là hàm Bessel bậc nhất của dòng I. Ba tia sáng này đi vào ba máy thu quang. Giả thiết rằng dòng điện của các máy thu quang tỷ lệ với cường độ của ánh sáng đi đến chúng, từ (3.2) dễ dàng nhận được công thức sau: I1 ≈ 0.5KФ[1- J0(k1Uchuan)J0(k2Udoluong)] + KФJ1(k1Uchuan)J1(k2Udoluong)cosφ I1 ≈ 0.5KФ[1- J0(k1Uchuan)J0(k2Udoluong)] + KФJ1(k1Uchuan)J1(k2Udoluong)sinφ (3.3) I1 ≈ 0.5KФ[1- J0(k1Uchuan)J0(k2Udoluong)] - KФJ1(k1Uchuan)J1(k2Udoluong)cosφ ở đây, Кф – là hệ số phát của máy thu quang. Tín hiệu từ đầu ra của bộ công thứ nhất sẽ tỷ lệ với thành phần một chiều của dòng điện tại máy thu: Is1 = I1 + I3 = KФ[1- J0(k1Uchuan)J0(k2Udoluong)] Tín hiệu từ các đầu ra thứ hai và thứ ba của bộ cộng với các đầu vào đảo từ công thức (3.2) sẽ bằng: IS2 = I2 – 0.5(I1+I3) = KФJ1(k1Uchuan)J1(k2Udoluong)sinφ IS3 = I1 –0.5(I1+I3)=KФJ1(k1Uchuan)J1(k2Udoluong)cosφ (3.4) Các tín hiệu này được đưa đến đầu vào của bộ chia, nhờ đó, tín hiệu tại đầu ra bộ chia sẽ tỷ lệ với tgφ và không phụ thuộc vào biên độ tín hiệu ở cả hai kênh và không phụ thuộc vào hệ số phát của phần tử siêu cao tần nghiên cứu. Bởi vì thành phần dòng điện một chiều IS1 của máy thu quang phụ thuộc vào biên độ tín hiệu tại kênh đo lượng, có nghĩa phụ thuộc vào biên độ hệ số phát của phần tử siêu cao tần nghiên cứu, nhưng không phụ thuộc vào hiệu pha dao động trong các kênh chuẩn và kênh đo lường, do đó, theo độ lớn của nó có thể xác định được biên độ hệ số phát của phần tử nghiên cứu. Bộ xoay pha quang thứ nhất được sử dụng để hiệu chỉnh thiết bị. 4. KẾT LUẬN Thiết bị được đề xuất trên có thể tích hợp với anten vi dải phát xạ tín hiệu phân cực tròn, là đầu vào trong các bộ cảm biến sóng vô tuyến đo các biến dạng trong các môi trường khắc nghiệt, ví dụ để đo các tham số biến dạng của cánh tuabin [4-6]. Việc sử dụng trong thiết bị đo lường hai hoặc nhiều hơn các kênh quang điện cho phép nâng cao được độ chính xác việc đo sự dịch chuyển pha và biên độ dao động siêu cao tần. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Буй Нгок Ми, “Разработка и исследование печатных антенн для радиоволновых и оптоэлектронных датчиков”. Tạp chí Nghiên cứu khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự, số 40,12-2015. [2]. Головков А.А., Кузнецов С.В., Приходько В.Ю, Осипов А.П., “Устройство для измерения параметров отражения сигнала от входа СВЧ элементов”. А.С. 1737361., Заявитель: ЛЭТИ, авт. /Опубл. 1989, Б.И. №20. [3] Буй Нгок Ми, “Устройство для измерения сигнала, отраженного от входа СВЧ антенны для радиочасточных вибраций”. Tạp chí Nghiên cứu khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự, số 21,12-2007. [4]. Bùi Ngọc Mỹ, Đỗ Văn Lập, Nguyễn Văn Sơn, Nguyễn Thanh Hùng, “Sử dụng sóng siêu cao tần đo các tham số rung, đập của cánh tuabin”. Tạp chí Nghiên cứu khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự, số 22, 3-2008. Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 42, 04 - 2016 117 [5]. Буй Нгок Ми, Мамруков А.В. “Моделирование СВЧ измерения параметров вибраций лопаток турбин. Материалы Всероссийской научно-технической конференции”, Актуальные проблемы радиоэлектроники и телекоммуникаций. Самара, 31 мая – 4 июня 2004 г. С.24-25. [6]. Буй Нгок Ми. “Радиочастотные и оптические методы и устройства измерения вибраций турбинных лопаток”. Диссертация. Санкт-Петербург, 2006. С.122-131. ABSTRACT A RESEARCH ON SOLUTION OF MEASURING REFLECTED SIGNALS FROM UHF ANTENNA INPUT USING A NUMBER OF OPTOELECTRIC CHANNELS This paper proposed a method of measuring reflected parameters from the input of ultra-high frequency (UHF) antenna using some additionally photoelectric channels. Those UHF antennae are the micro-strip antenna, mounted on positions or areas by radio measurement devices for measuring the vibrations, distortion of objects. The addition and combination of a number of photoelectric channels will improve the ability and quality of measurement. Keywords: Ultra-high-frequency (UHF) antenna, Optoelectric channel, Reflection coefficient, Emission coefficient. Nhận bài ngày 09 tháng 3 năm 2016 Hoàn thiện ngày 15 tháng 4 năm 2016 Chấp nhận đăng ngày 20 tháng 4 năm 2016 Địa chỉ: Viện KH-CN quân sự. * Email: buingocmy_vn@mail.ru
File đính kèm:
- nghien_cuu_giai_phap_do_cac_tin_hieu_phan_xa_tu_dau_vao_ante.pdf