Một số nhận định về đặc trưng của dòng thấm qua đập đất dựa trên phương pháp thủy hóa và đồng vị bền
Tóm tắt: Đập là công trình được xây dựng để ngăn nước cho hồ chứa thủy điện/thủy lợi. Nước từ
hồ thấm qua thân/nền đập sẽ mang theo thông tin về dòng thấm. Việc hiểu rõ đặc trưng của dòng
thấm thông qua các chỉ tiêu vật lý, hóa học giúp đưa ra hình dung cơ bản nhất về chế độ thấm, từ
đó giúp kiểm soát dòng thấm hiệu quả. Báo cáo này trình bày một số kết quả ứng dụng phương
pháp thủy hóa và đồng vị bền nghiên cứu đặc trưng của dòng thấm qua đập đất đồng chất. Các
mẫu nước hồ, nước thấm thân/nền đập, và hai vị trí thấm tập trung tại hạ lưu đập đã được phân
tích các chỉ tiêu độ dẫn, pH, TDS, thành phần ion và đồng vị bền. Kết quả cho thấy nước từ hồ thấm
qua thân đập bị chi phối bởi quá trình hòa tan khoáng và trao đổi ion. Nước nền đập được bổ cập
từ nước hồ và nước ngầm địa phương giàu CO2. Bên cạnh đó, nước thấm qua nền đóng góp đáng
kể vào nguồn gốc của các điểm thấm tập trung hạ lưu đập
: δD = 8δ18O + 10 (‰). Mối quan hệ giữa δD và δ18O KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 65 (6/2019) 113 của RL được biểu diễn theo phương trình: δD = 7.66δ18O + 10.82 (‰). Độ dốc của RL nhỏ hơn độ dốc của GMWL (7.66 < 8) và hệ số chặn trong khoảng 10% cho thấy nước mưa đã trải qua quá trình bay hơi trong điều kiện độ ẩm dưới 85% trước khi bổ cập vào lưu vực (István, 2005). Hình 5. Tương quan δD – δ18O của các mẫu nước trong khu vực nghiên cứu. Nước piezometer thân và nền và nước hồ nằm dọc theo RL và GMWL cho thấy nguồn gốc chủ yếu từ nước khí tượng (hình 5) ít chịu ảnh hưởng bay hơi, do sự thay thế liên tục nước hồ bởi dòng chảy vào (nước ngầm/nước mưa địa phương) và dòng chảy ra (Lesleigh, 2016). Nước giếng giảm áp và nước từ hai điểm thấm tập trung nằm về bên trái GMWL với δ18O suy giảm trong khi δD thay đổi không đáng kể (hình 5), có thể là kết quả của sự cân bằng 18O giữa CO2 hòa tan và nước ở nhiệt độ thấp, thường quan sát được trong các tầng nước ngầm giàu CO2 với thời gian tương tác nước - đá - CO2 dài (Pauline, 2014). Hình 6. Tương quan Deuterium dư thừa (D-excess) và δ18O của các mẫu nước Tương quan Deuterium dư thừa và δ18O của các mẫu nước được thể hiện như hình 6. Deuterium dư thừa được định nghĩa bằng d = δD - 8δ18O cung cấp thông tin về nguồn gốc hơi nước (Gat, 1983). Hầu hết các mẫu có giá trị Deuterium dư thừa trên 10, cho thấy nguồn gốc hơi nước có liên quan đến sự đóng góp của hơi nước tái tuần hoàn trên bề mặt lục địa. Deuterium dư thừa tại hai vị trí thấm tập trung khá tương đồng nhau và gần với nước thu tại giếng giảm áp cho thấy các mẫu có thể có chung nguồn gốc hơi nước. Khi δ18O tăng Deuterium dư thừa giảm dần ngụ ý sự pha loãng với nước mưa ảnh hưởng không nhỏ đến thành phần nước trong khu vực (Obed, 2016). Đồ thị tương quan giữa δ18O và độ dẫn, HCO3 - của các mẫu nước được biểu diễn như hình 7. Độ dẫn và nồng độ HCO3 - tăng dần theo thứ tự Nước hồ (NH) > Nước thấm qua thân (ĐĐA)> Thấm có cát (RCC) > Thấm nước trong (RNT) > Nước giếng giảm áp (W) mà không có sự thay đổi nhiều về δ18O, KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 65 (6/2019) 114 cho thấy quá quá trình khoáng hóa tăng dần từ nước hồ đến nước thu tại các giếng giảm áp (Obed, 2016). Độ khoáng hóa của RCC gần với nước thấm qua thân đập, trong khi độ khoáng hóa của RNT gần với nước thấm qua nền. Hình 7. Đồ thị độ dẫn (EC) vs δ18O và đồ thị δ18O vs HCO3 - của các mẫu nước 4.3. Nhận xét về chế độ thấm của đập Đặc trưng về thành phần ion và đồng vị bền của các mẫu nước cung cấp thông tin cơ bản nhất về chế độ thấm của đập. Nước hồ được bổ cập từ nước mưa trong điều kiện độ ẩm dưới 85%, ít chịu ảnh hưởng bởi bay hơi do sự thay thế liên tục nước hồ bởi dòng chảy vào (nước ngầm/nước mưa địa phương) và dòng chảy ra. Dựa trên chênh áp thủy lực, nước hồ thấm qua thân đập, hòa tan các thành phần khoáng. Bên cạnh đó, quá trình trao đổi ion là nguyên nhân chính dẫn dẫn sự suy giảm nồng độ (Ca2+ + Mg2+) so với (Na+ + K+) trong nước thấm qua thân đập. Nước nền đập (piezometer nền và giếng giảm áp) được bổ cập từ nước hồ, nước ngầm địa phương với quá trình hòa tan khoáng chiếm ưu thế. Kết quả phân tích đồng vị bền cho thấy nước thấm qua nền tại các giếng giảm áp đặc trưng cho nước ngầm giàu CO2 với thời gian tương tác nước – đá – CO2 dài. Độ khoáng hóa tăng dần từ nước hồ - nước thấm qua thân – nước thấm qua nền. Mặt khác, tại mặt cắt MC3 và mặt cắt MC4, piezometer thân ĐD2A thể hiện thành phần ion như nước thấm qua nền và piezometer nền ĐD5 thể hiện thành phần ion như nước thấm qua thân, ngụ ý có thể có sự liên thông thủy lực giữa thân đập và nền đập như minh họa ở hình 8. Hình 8. Minh họa cơ chế thấm qua đập tại mặt cắt thứ 3 tính từ cửa xả Kết quả phân tích ion và đồng vị bền kết hợp với quan trắc thủy lực cho thấy nguồn gốc của điểm thấm nước trong có thể từ nước thấm qua nền chịu ảnh hưởng bởi nước ngầm địa phương. Bên cạnh đó, tỷ số ion, phân loại nước, thành phần đồng vị của điểm thấm cát rất tương đồng với nước thấm qua nền, tuy nhiên, độ khoáng hóa lại gần với nước thấm qua thân đập, ngụ ý nguồn gốc nước có thể từ sự hòa trộn của nước thấm qua thân và nền. 5. KẾT LUẬN Thành phần đồng vị bền Deuterium và Oxygen-18 cùng với các chỉ tiêu vật lý, hóa học được ứng dụng để xác định đặc trưng của nước thấm qua đập đất ĐN, từ đó đưa ra thông tin cơ bản nhất về chế độ thấm của đập. Đối tượng phân tích gồm các mẫu nước hồ, nước thấm qua thân/nền đập và hai vị trí thấm tập trung tại hạ lưu đập. Kết quả cho thấy nước hồ KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 65 (6/2019) 115 có nguồn gốc khí tượng, ít chịu ảnh hưởng bởi bay hơi. Nước từ hồ thấm qua thân đập bị chi phối bởi quá trình hòa tan khoáng và trao đổi ion. Nước nền đập được bổ cập từ nước hồ và nước ngầm địa phương giàu CO2. Độ khoáng hóa tăng dần từ nước hồ - nước thấm qua thân – nước thấm qua nền. Mặt khác, tại mặt cắt MC3 và mặt cắt MC4, piezometer thân ĐD2A thể hiện thành phần ion như nước thấm qua nền và piezometer nền ĐD5 thể hiện thành phần ion như nước thấm qua thân, ngụ ý có thể có sự liên thông thủy lực giữa thân đập và nền đập. Kêt quả phân tích ion và đồng vị bền kết hợp với quan trắc thủy lực cho thấy nguồn gốc của điểm thấm nước trong có thể từ nước thấm qua nền chịu ảnh hưởng bởi nước ngầm địa phương và điểm thấm có cát có thể xuất phát từ sự hòa trộn của nước thấm qua thân và nền. Lời cảm ơn Công trình được thực hiện tại Phòng thí nghiệm đánh dấu của Trung tâm Ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong công nghiệp với kinh phí do Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam cấp thông qua đề tài mã số CS/18/06-01. Các tác giả xin trân trọng cảm ơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO J.R. Gat, R.E. Gonfiantini (1981), “Stable Isotope Hydrology: Deuterium and Oxygen-18 in the Water Cycle”, IAEA Technical Report Series #210. W.G. Mook (2001), “Environmental isotopes in the hydrological cycle, principles and applications”, International Atomic Energy Agency (IAEA) and United Nations Educational, Scientifc and Cultural Organization (UNESCO). M. Gomaah, T. Meixner, E.A. Korany, H. Garamoon, M.A. Gomaa (2016), “Identifying the sources and geochemical evolution of groundwater using stable isotopes and hydrogeochemistry in the Quaternary aquifer in the area between Ismailia and el Kassara canals, Northeastern Egypt”, Arab J Geosci, 9(6), pp. 437. J.T. Lynn, M.C. Dianna, A.P. Jaime (2005), “Physical and Hydrochemical Evidence of Lake Leakage near Jim Woodruff Lock and Dam and of Ground-Water Inflow to Lake Seminole, and an Assessment of Karst Features in and near the Lake, Southwestern Georgia and Northwestern Florida”, Scientific Investigations Report 2005–5084 (USGS). C. P. Kumar (2013), “Hydrological Studies Using Isotopes”, International Journal of Innovative Research & Development, 2(13), pp.8-15. N. H. Hussin, I. Yusoff (2016), “Multivariate statistical analysis for identifying water quality and hydrogeochemical evolution of shallow groundwater in Quaternary deposits in the Lower Kelantan River Basin, Malaysian Peninsula”, Springer, 75(14), pp.1081. F. István, (2005), “Processes behind the isotopic water line: water cycle and climate”, Studia universitatis bases-bolyai, Physica. A. Lesleigh, B. Max, A.B. John, A.S. Byron, P.F. Bruce, A.B. Mark, (2016), “Lake oxygen isotopes as recorders of North American Rocky Mountain hydroclimate: Holocene patterns and variability at multi-decadal to millennial time scales”, Global and Planetary Change, 137, pp.131–148. H. Pauline, L. Julie, N. Philippe, L. Vincent, (2014), “CO2 intrusion in freshwater aquifers: Review of geochemical tracers and monitoring tools, classical uses and innovative approaches”, Applied Geochemistry, 46, pp.95 – 108. J.R. Gat, (1983), “Palaeoclimates and Palaeowaters: A Collection of Environmental Isotope Studies: Proceedings of an Advisory Group Meeting on the Variations of the Isotopic Composition of Precipitation and of Groundwater During the Quaternary as a Consequence of Climatic Changes”, IAEA. KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 65 (6/2019) 116 F.F. Obed, M.Y. Sandow, P.C. Larry, B.Y. Gerald, (2016), “Evaluating groundwater recharge processes using stable isotope signatures-the Nabogo catchment of the White Volta, Ghana”, Arab J Geosci, 9(4), pp.1 - 15. Abstract: ASSESSMENT OF THE CHARACTERISTICS OF SEEPAGE WATER THROUGH EARTH DAM BASED ON HYDROCHEMICAL AND STABLE ISOTOPE METHOD The dam is a construction built to prevent water for hydropower/irrigation reservoirs. Water from the reservoir seeps through the dam body/foundation will give information about seepage flow. Understanding the characteristics of seepage flow through physical, chemical indicators helps to give the most basic visualization of the permeability regime, thereby helping to control the seepage effectively. The report presents some results of the application of hydrochemical and stable isotope method to study the characteristics of seepage water through the homogeneous earth dam. Samples of reservoir water, dam body water, dam foundation water, and two concentrated seepage points in the downstream of the dam were analyzed for conductivity, pH, TDS, ionic components, stable isotopes. The results showed that water from the lake seeps through the dam body is dominated by the dissolution and ion exchange process. The dam foundation water is recharged by reservoir water and local CO2 - rich groundwater. In addition, the results show that the dam foundation water significantly contributes to the origin of the downstream concentrated seepage points. Keywords: Stable isotope, hydrochemistry, seepage flow, earth dam. Ngày nhận bài: 15/5/2019 Ngày chấp nhận đăng: 31/5/2019
File đính kèm:
- mot_so_nhan_dinh_ve_dac_trung_cua_dong_tham_qua_dap_dat_dua.pdf