Một số kết quả nghiên cứu thí nghiệm hiện trường về phương pháp cố kết hút chân không xử lý nền đường cao tốc Long Thành – Dầu Giây
Tóm tắt: Việc cố kết đất yếu bằng phương pháp hút chân không đã được áp dụng trên thế giới
và hiện đang được nghiên cứu ở Việt Nam- tại Trường Đại học Thủy Lợi. Trong giai đoạn thí
nghiệm hiện trường với điều kiện địa chất ở nước ta, nhóm nghiên cứu đã phối hợp với đơn vị sản
xuất trong việc thí nghiệm hiện trường cho công trình đường cao tốc Long Thành- Dầu Giây nhằm
lựa chọn phương án thi công hiệu quả. Việc đưa phương pháp từ phòng thí nghiệm ra hiện trường
đòi hỏi phải lựa chọn chính xác phương án bố trí và đưa ra một số chỉnh sửa để phù hợp với tình
hình thực tế của địa điểm thí nghiệm. Trong bài này trình bày những nét chính của thí nghiệm hiện
trường và một số kết quả đo đạc bước đầu.
xong. Mỗi ô thí nghiệm được bố trí một máy bơm hút chân không hoạt động liên tục. Để tránh quá tải cho máy bơm cần bố trí thêm một máy bơm hoạt động luân phiên. Nước hút lên đổ ra hào thoát nước dẫn ra xa khỏi địa điểm thi công (hình 9). Trong một số ngày đầu tiên của quá trình bơm hút nước chảy ra là nước đục do có một số hạt sét mịn từ giai đoạn lấp lỗ cắm bấc và một số hạt đất nền bị hút vào trong bấc. Quá trình này trung bình chỉ kéo dài khoảng từ 3 ÷ 5 ngày. Quá trình bơm hút kết thúc khi hệ số cố kết đạt giá trị thiết kế. Đối với việc xử lý nền làm đường thì hệ số thấm của đất nền sau khi xử lý thường không được chú ý, tuy nhiên khi áp dụng phương pháp này để xây đê ven biển thì phải lưu tâm để bảo đảm an toàn cho sự vận hành công trình. 81 Hình 9: Ống xả máy bơm hút chân không. d) Phân tích giải pháp bố trí Cả hai phương pháp đều có những ưu và nhược điểm riêng. Về vật tư thi công, phương pháp MVC chiếm lợi thế rất lớn do lớp gia tải mỏng, tiết kiệm nguyên vật liệu. Phương pháp Beaudrain đắp lớp gia tải dày tới gần 5 m, tuy nhiên lớp này có thể tái sử dụng vì vậy vẫn có thể áp dụng tốt đối với các công trình có chiều dài lớn và thi công phân đoạn như đường giao thông, đê. Phương pháp MVC còn có lợi thế là nối ống trong vùng kín khí vì vậy tương đối đơn giản, yêu cầu không quá cao. Về quá trình thi công, phương pháp MVC có nhược điểm rất lớn là phải đào hào vây, vì vậy khó thi công luân phiên, vùng tiếp giáp giữa hai khu vực bơm hút khó xử lý, vì vậy có tính hạn chế khi áp dụng cho các công trình có chiều dài lớn, phải thi công phân đoạn. Trong khi đó phương pháp Beaudrain có thể thi công tuần tự, gối tiếp các khu vực xử lý nằm cạnh nhau một cách đơn giản, đảm bảo nền được xử lý đồng bộ, hạn chế được hiện tượng lún không đều. Trong quá trình thi công theo phương pháp MVC việc thủng màng phủ và màng kín khí ngoài ý muốn do động vật tác động là có thể xảy ra. Công tác tìm và vá lỗ thủng trên màng là rất khó khăn. So sánh về kết quả xử lý là chưa rõ ràng vì thời gian thi công còn ngắn. Tuy nhiên qua các số liệu đo đạc ban đầu thì có thể đưa ra một số phân tích và nhận định sơ bộ. 3. Phân tích kết quả đo đạc ban đầu Để có tính đối chiếu, kết quả đo đạc hiện trường được so sánh cùng với kết quả tính toán được bằng phần mềm Msettle (hình 10). Số liệu sử dụng cho tính toán là số liệu của phương án bố trí thi công MVC, vì Beaudrain-S là phát minh mới gần đây của công ty Cofra, phần mềm tính toán chuyên dụng cho phương án trên chỉ có ở công ty này. Hình 10: Giới thiệu giao diện phần mềm Msettle. Chu kỳ đo đối với từng loại số liệu khác nhau là khác nhau. Đối với các loại số liệu trực quan như là độ lún bề mặt, việc đo kiểm tra được tiến hành hàng ngày. Để tránh việc các số liệu có xu hướng biến thiên tương tự và sai lệch rất nhỏ làm rối việc quan sát phân tích đồ thị, số liệu được so sánh trên đồ thị chỉ là số liệu tại một điểm đại diện được chọn, là tâm của miền xử lý (C1 và D2) và điểm biên chính giữa hướng Long Thành (điễm giữa cạnh dài trên hình 2). Số liệu địa chất đất nền phục vụ tính toán được tổng hợp trong bảng 1. Bảng 1. Số liệu địa chất cơ bản phục vụ tính toán TT Đại lượng Đơn vị Giá trị 01 Dung trọng tự nhiên kN/m3 14,2 02 Dung trọng bão hòa kN/m3 11,8 03 Hệ số cố kết đứng (Cv) m 2 /tháng 0,27 04 Tỉ số cố kết (Ch/Cv) 3 Kết quả đo đạc có đối chiếu với số liệu tính toán bằng phần mềm của độ lún bề mặt được trình bày trên hình 11. 82 Hình 11: Độ lún trong miền xử lý C1 và D2 (C4) Do tác động của việc đắp phân đoạn lớp cát gia tải, độ lún ban đầu của phương án bố trí thi công Beaudrain-S có giá trị khác 0. Đồng thời do lớp gia tải tương đối dày, nên trong giai đoạn đầu bơm hút, lớp gia tải này đóng vai trò chính trong quá trình tạo lún. Vì những lý do này, độ lún trong khoảng 10 ngày đầu tiên có độ chênh lệch rất lớn so với phương pháp MVC, tuy nhiên càng về sau, tác dụng của lớp gia tải càng giảm đi rõ rệt. Đối với phương pháp MVC, độ lún ban đầu không lớn như dự báo của phần mềm tính toán. Điều này có thể lý giải một phần là do khu vực chân không dưới màng chống thấm cần có quá trình để tạo thành, các hạt siêu mịn chưa được hút hết ra khỏi đất nền do đó kết cấu còn bền vững. Sau đó quá trình lún diễn ra nhanh hơn và không sai lệch quá so với dự báo ± 1,1 cm. Sau 32 ngày bơm hút liên tục, độ lún bề mặt của cả hai phương pháp đạt gần 0,4 m và đều vượt hơn dự báo từ 0,5 cm đến 4 cm. Đối với các giá trị lún tại sát ngoài biên khu vực xử lý, nhìn chung giá trị dao động trong khoảng từ 0,7 ÷ 0,8 giá trị lún bên trong khu vực thí nghiệm. Kết quả đo đạc chuyển vị ngang trên mặt cắt tại biên bằng máy đo inclinometer được thể hiện trên hình 12. Nhìn chung giá trị nhỏ, chuyển vị ngang lớn nhất đo được là 6mm tại độ sâu 4 m. Vùng chuyển vị mạnh nhất có độ sâu 0÷7m. Hiện tượng này phản ánh bản chất của biểu đồ phân bố áp suất chân không mạnh nhất tại vùng xung quanh nơi bấc bắt đầu làm việc và do đó dòng thấm hướng ngang có lưu tốc lớn hơn các vùng khác. Thêm vào đó, càng xuống sâu, áp lực thẳng đứng càng lớn vì vậy sự xê xích của đất nền trở nên khó khăn hơn. Hình 12: Chuyển vị ngang tại biên C1 theo ngày. Chuyển vị ngang trong những ngày đầu tương đối ít do tại thời điểm này đất nền còn chắc. Chuyển vị chỉ thực sự phát triển mạnh trong khoảng từ 6 đến 15 ngày kể từ khi bắt đầu bơm hút. Và sau đó tiếp tục với cường độ thấp hơn một chút. Diễn biến đối với khu vực thi công theo phương pháp MVC hoàn toàn tương tự. Về bản chất thí nghiệm các giá trị chuyển vị này chỉ nhằm mục đích phát hiện vùng có độ xê dịch lớn, chứ không phải giá trị tuyệt đối vì độ cứng của casing lớn hơn rất nhiều so với đất nền. Trong thí nghiệm kiểm tra, nếu hút với một hoặc một vài hàng ống, máy bơm có thể mau chóng đạt được áp suất bơm hút hơn 90kPa trong vòng 5 phút, tuy nhiên khi thí nghiệm với hiện trường, quá trình này kéo dài vài ngày do diện tích xử lý rất lớn. Máy bơm của phương pháp MVC công suất cao hơn, đồng thời chạy bằng điện từ máy phát điện vì vậy nhìn chung có độ ổn định cao, dễ điều khiển hơn. Khi công suất không đảm bảo, làm tụt áp lực thì có thể nhanh chóng điều chỉnh công suất để áp lực ổn định trở lại. Trường hợp tốt nhất là luôn duy trì được ổn định áp suất âm xấp xỉ -0,95 atm. Hình 13: Sự thay đổi suất bơm hút máy bơm C1, D2 83 Tuy nhiên xét trên tổng thể quá trình bơm hút lâu dài thì những dao động trong quá trình làm việc của máy bơm không có ảnh hưởng lớn đến kết quả quá trình xử lý. Trên hình 13 là đường quá trình của áp lực bơm hút máy bơm đạt được. 4. Kết luận và kiến nghị Từ quá trình bố trí thi công và các kết quả đo đạc thu được ban đầu của thí nghiệm hiện trường có thể rút ra một số kết luận và kiến nghị sau: 4.1. Việc áp dụng phương pháp cố kết đất yếu bằng hút chân không trong thí nghiệm hiện trường cho kết quả đo đạc ban đầu là khớp với tính toán dự kiến. Việc sử dụng phần mềm Msettle để tính toán là hợp lý, tuy nhiên phần mềm này chỉ chú trọng tính toán độ lún đứng trong miền xử lý mà không quan tâm đến độ dịch chuyển ngang và lún đứng ngoài miền. 4.2. Phương pháp Beaudrain-S cần khối lượng gia tải lớn vì vậy không thích hợp với các công trình cỡ nhỏ. Tuy nhiên ưu điểm của phương pháp này là đơn giản và thi công luân phiên được nên có thể áp dụng cho các công trình có độ dài lớn. Phương pháp này có thể áp dụng để đắp đê nếu tính toán sử dụng được luôn đất gia tải để đắp đê. 4.3. Phương pháp MVC có tính kinh tế hơn, tuy nhiên khi thi công cần đặc biệt lưu ý các vùng biên và có phương pháp bảo vệ hư hại cho màng. Phương pháp này khi dùng để thi công đường nên cho đầm thêm các đoạn nối tiếp, các đoạn biên để đảm bảo hệ số cố kết không sai lệch nhiều giữa các đoạn. 4.4. Trong giai đoạn đầu, kết quả của phương pháp Beaudrain-S tốt hơn, tuy nhiên về lâu dài, kết quả của hai phương pháp này có xu hướng tiệm cận lại với nhau. Cần theo dõi đo đạc đến hết quá trình cố kết dự kiến để kiểm chứng. Từ đó có đề nghị cuối cùng về việc lựa chọn phương pháp thi công cho công trình đường cao tốc Long Thành - Dầu Giây. 4.5. Hướng mở rộng tiếp theo của đề tài sau khi thí nghiệm hiện trường kết thúc là nghiên cứu khả năng áp dụng của công nghệ này cho việc thi công đê và các CTTL khác. Tài liệu tham khảo 1. Jian Chu, Shuwang Yan, and Buddhima Indranata. Vacuum Preloading Techniques – Recent Development and Applications. 2008. 2. Nguyễn Chiến, Phạm Quang Đông - Kết quả bước đầu về nghiên cứu bố trí hợp lý bấc thấm khi xử lý nền đất yếu bằng phương pháp cố kết chân không. 2009. 3. POSCO Engineering & Construction Co., Ltd. Method statement for PVD installation and vacuum application for trial sections. 2010. Abstract INITIAL RESULTS OF FIELD VACUUM CONSOLIDATION EXPERIMENT FOR GROUND IMPROVEMENT IN LONG THANH - DAU GIAY HIGHWAY PROJECT Prof. Dr. Nguyen Chien, MSc. To Huu Duc - Water Resources University MSc. Pham Quang Dong - Doctoral candidate of Water Resources University Soft soil improvement by vacuum consolidation method has been applied worldwide and is studied currently in Vietnam Water Resources University. Moving on field experiment step, the project staff cooperated with production units in organizing full scale field experiment in order to identify efficient construction method for the Long Thanh - Dau Giay highway project. Changing studied object from small scale experiment in laboratory to full scale field experiment require a rational design for construction method with some small innovations in order to fit the theory with the particular construction site’s conditions. The paper introduces schematically some main points in organizing field experiment and the analyzing on the initial tracking data.
File đính kèm:
- mot_so_ket_qua_nghien_cuu_thi_nghiem_hien_truong_ve_phuong_p.pdf