Lý thuyết đại diện vận dụng trong nghiên cứu kế toán quản trị
Mục tiêu chính của bài viết nhằm giới thiệu tóm tắt quá trình phát triển của kế toán quản trị
(KTQT), sự phát triển của lý thuyết đại diện, nội dung chính của lý thuyết đại diện, các loại
chi phí phát sinh do sự tách rời giữa quyền sở hữu và quản lý doanh nghiệp (DN) cùng với
hiện tượng thông tin bất đối xứng và ứng dụng lý thuyết đại diện trong nghiên cứu KTQT.
cho các báo cáo quý, những giới hạn trong hoạt động quản lý vì phải báo cáo thông tin minh bạch, các khoản thu nhập mất đi do không được tiến hành các hoạt động hợp tác với bên ngoài.... Nhưng các nhà quản lý chỉ chấp nhận chi phí liên kết này trong phạm vi chi phí này giảm được chi phí giám sát mà họ đang gánh chịu. Khi chi phí liên kết tăng lên bằng hoặc lớn hơn mức giảm xuống của chi phí giám sát, các nhà quản lý có thể chấm dứt không chấp nhận chi phí liên kết. Chi phí khác là việc giảm lợi ích của bên ủy nhiệm ngay cả khi có cả chi phí giám sát và chi phí liên kết, hành vi của người được ủy nhiệm cũng không hoàn toàn vì lợi ích của người ủy nhiệm. Theo Stanley Baiman (1990) Lý thuyết địa diện bao gồm 3 nhánh nghiên cứu chính: Nhánh nghiên cứu thứ nhất: Lý thuyết về Người ủy quyền – Người đại diện: Đây là hướng nghiên cứu được xem là nền tảng cho các nghiên cứu về kế toán. Mô hình dựa trên hành vi hợp lý của các cá nhân và giả định rằng chúng có thể dự đoán và đánh giá xác suất của các tình huống trong tương lai. Các hành động của các cá nhân trong mô hình được sinh ra từ nội sinh dựa trên các sở thích và niềm tin được chỉ định. Từ các cá nhân, chúng tôi hy vọng rằng họ sẽ hành động chính xác theo cách riêng của họ sở thích. Hợp đồng được hoàn thành theo nghĩa là đối với mỗi sự kiện, họ cho biết các hành động sẽ được xác định bởi hợp đồng các bên. Mô hình này hy vọng tính hợp lý hoàn hảo của các quyền hợp đồng. n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 172 Nhánh nghiên cứu thứ 2: Lý thuyết về chi phí giao dịch kinh tế: Mô hình giả định rằng các cá nhân đang hành động vì lợi ích riêng của họ. Điều này có thể được mô tả là cơ hội hành vi cá nhân không phải lúc nào cũng hành xử theo các quy tắc, nhưng họ thích lợi ích riêng của họ. Mô hình cung cấp giải thích về mối quan hệ bất thường giữa các công ty đang cố gắng xây dựng hoặc sử dụng quyền lực độc quyền. Phân tích dựa trên mô hình cho thấy một số mối quan hệ này có thể là do mong muốn giảm thiểu chi phí giao dịch. Nhánh nghiên cứu thứ 3: Lý thuyết Rochester: Dựa trên nghiên cứu của Jensen & Meckling năm 1976: Mô hình này rất giống với mô hình kinh tế chi phí giao dịch cũng đề cập đến hành vi cơ hội và chi phí giao dịch. Tuy nhiên, dựa trên lý thuyết kế toán tích cực (Watts và Zimmerman, 1986). Một lợi ích của mô hình Rochester là một khuôn mẫu được áp dụng cho vấn đề của người đại diện và mục đích của nó là để hiểu cách vấn đề của người đại diện xảy ra và làm thế nào nó có thể được giảm thiểu bởi cơ cấu tổ chức. Nghiên cứu dựa trên mô hình tích cực của Rochester, có khuynh hướng xác định các tình huống trong đó có sự khác biệt về quyền lợi giữa chủ sở hữu và người đại diện qua đó đánh giá tính hiệu quả về chi phí trong việc thiết lập cơ chế kiểm soát. Cả ba mô hình đều cung cấp một khung nghiên cứu tương tự để phân tích hành vi của các cá nhân trong bối cảnh kinh tế. Để hiểu được những tổn thất do lợi ích khác nhau của bên và phân tích hậu quả của các quá trình kiểm soát khác nhau, để giảm thiểu sự các hậu quả do vấn đề của nhà quản lý gây ra. 4. Vận dụng lý thuyết đại diện trong nghiên cứu KTQT Roirdan (1987) lưu ý rằng, vai trò và giá trị của KTQT sẽ khác nhau tùy thuộc vào việc vận dụng lý thuyết đại diện. Cần tiếp tục được đánh giá cao rằng bên cạnh những người đại diện ngay cả chủ sở hữu cũng có thể cư xử một cách cơ hội nếu họ có cơ hội. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu về lý thuyết đại diện giả định rằng các quyết định của chủ sở hữu (người ủy quyền) là có thể kiểm chứng và có thể được ký hợp đồng, do đó không phải chịu rủi ro đạo đức. Nghiên cứu về KTQT tập trung đáng kể vào đánh giá hiệu suất và các vấn đề liên quan sự kiểm soát của công ty. Điều này bao gồm các ưu đãi quản lý và hành vi của bên ủy nhiệm và người đại diện, chủ sở hữu cũng thiết kế hệ thống giám sát hành vi của nhà quản lý. Chủ sở hữu phải quyết định số tiền đầu tư vào quy trình sản xuất và bao nhiêu cho hệ thống giám sát. Kumar (1989) thấy rằng, nếu chủ sở hữu đầu tư rất nhiều trong quá trình sản xuất, sau đó công ty sẽ đầu tư vào một hệ thống giám sát để giảm bớt vấn đề của người đại diện. Lý thuyết đại diện cũng áp dụng cho các mối quan hệ giữa các tổ chức và cố gắng giải thích mối quan hệ giữa chúng (Hopper, 2007). Một điều kiện tiên quyết quan trọng là sự không hoàn hảo của các hợp đồng, không thể kết hợp tất cả các dự phòng tương lai trong hợp đồng. Lý thuyết đại diện giải thích sự thiếu hiệu quả trong quan hệ giữa các công ty, đó là kết quả của thông tin bất đối xứng và cơ hội. Thông tin bất đối xứng trong trường hợp này có nghĩa là, một công ty có thông tin có thể được sử dụng đối với một công ty khác mà anh ta có mối quan hệ hợp đồng. Để loại bỏ thông tin bất đối xứng giữa các DN, sẽ tốt hơn để thúc đẩy trao đổi thông tin. Để quản lý mối quan hệ giữa các tổ chức cũng cần thiết để cung cấp các khuyến khích các công ty hành xử một cách hợp lý. Cải thiện trao đổi thông tin dẫn đến hiệu n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 173 quả cao hơn trong chuỗi cung ứng. Các nhà cung cấp và khách hàng có thể dễ dàng xác định mức giảm chi phí. Thông tin có thể được trao đổi ví dụ bằng cách sử dụng chi phí mục tiêu, các biện pháp thực hiện hoặc phỏng vấn. Bằng cách kết hợp lý thuyết đại diện và KTQT, rõ ràng nhu cầu ngày càng tăng đối với các công cụ giám sát hành vi của người quản lý. Ngoài ra, đó cũng là một yêu cầu để kiểm soát và giám sát chi phí quản lý. Đối với DN, cần cân bằng chi phí giám sát và lợi ích. Lý thuyết đại lý cung cấp mô tả về hành vi của người quản lý, tác động trực tiếp đến giá trị của thông tin trong quản lý kế toán. Thu thập thông tin trong KTQT không phải là không có chi phí của việc mua lại này, từ quan điểm này, chúng ta phải xem xét nơi thông tin này được sử dụng và giá trị của chúng cho công ty là gì. Các thông tin thu được sẽ tiết lộ trình quản lý hành vi của đại diện (agent) trong một DN. Nếu thông tin của KTQT không thể tiết lộ hành vi cơ hội này dựa trên lý thuyết đại diện, nhà quản lý đã chi tiêu chi phí không hiệu quả và là một sự lãng phí của các công ty tài nguyên. Lợi ích của lý thuyết đại diện là nó giúp DN sử dụng các kỹ thuật trong KTQT. Lý thuyết đại diện giải thích vì sao phải áp dụng hệ thống kế toán trách nhiệm trong DN và đối với các công ty cổ phần, công ty niêm yết hệ thống KTQT cần cung cấp những thông tin gì để đảm bảo lợi ích cho các nhà đầu tư và các cổ đông. Đặc biệt là, trong điều kiện Việt Nam khi mà chưa có một thị trường chứng khoán phát triển hoàn chỉnh thì các thông tin KTQT DN cung cấp chính xác và đầy đủ thực sự có ý nghĩa đối với các nhà đầu tư. Lý thuyết đại diện cũng là cơ sở để xây dựng các báo cáo nội bộ trong DN, các báo cáo đánh giá trách nhiệm phù hợp với hệ thống phân quyền trong các DN Việt Nam. 5. Kết luận Bài viết này tóm tắt sự phát triển của KTQT với sự nhấn mạnh vào những thay đổi đáng kể mà đã định hình khái niệm này cho sự xuất hiện hiện tại. Toàn cầu hóa và tự do hóa dẫn đến tăng cạnh tranh và các công ty yêu cầu thông tin quản lý đảm bảo chất lượng và kịp thời. Tổ chức mới được tạo cấu trúc đòi hỏi những thay đổi trong thực tiễn quản lý và một hệ thống KTQT linh hoạt. Đưa ra những thay đổi trong môi trường kinh doanh, KTQT phải có khả năng cung cấp thông tin phản hồi chính xác và đáng tin cậy về sự thành công hoặc thất bại tương đối trong chiến lược DN. Lý thuyết đại diện được dựa trên giả định rằng các cá nhân được hợp lý hóa, trong khi ưu tiên lợi nhuận của chính họ trước công ty. Lý thuyết đại diện mô tả một vấn đề mà các nhà quản lý đã quan sát thấy trong các công ty cổ phần khi mà quyền sở hữu và quyền quản lý tách rời nhau dẫn đến bất cân xứng về thông tin giữa các bên. Lợi ích quan trọng của lý thuyết đại diện trong khái niệm KTQT cũng là ứng dụng trong lĩnh vực đo lường hiệu suất, hệ thống thưởng, kiểm soát và quản lý trong phân tích chi phí liên quan. ------------------------------ Tài liệu tham khảo 1. Adams, J. (1996). Principals and agents, colonialists and company men: The decay of colonial control in the Dutch East Indies. American Sociological Review, 61(1), 12–28. Google Scholar, Crossref, ISI 2. Agrawal, A., Knoeber, C. R. (1996). Firm performance and mechanisms to control agency problems between managers and shareholders. Journal of Financial and Quantitative Analysis, 31(3), 377–397. Google Scholar, Crossref, ISI n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 174 3.Ahmed, A. (2009). Managerial ownership concentration and agency conflict using logistic regression approach: Evidence from Bursa Malaysia. Journal of Management Research, 1(1), 1–10. Google Scholar 4.Arrow, K. (1971). Essays in the theory of risk bearing. Chicago, IL: Markham. Google Scholar 5.Barnea, A., Haugen, R. A., Senbet, L. W. (1985). Agency problems and financial contracting. New Jersey: Prentice Hall Inc. Google Scholar 6. Christopher S. Chapman, Anthony G. Hopwood and Michael D. Shields (2007), "Psychology Theory in Management Accounting Research". Handbook of Management Accounting Research Elsevier Ltd. All rights reserved. 7.Fama, E. (1980). Agency problems and the theory of the firm. Journal of Political Economy, 88(2), 288– 307. Google Scholar, Crossref, ISI 8. Maleen Z.Gong, Michael S.C.Tse (2009), “Pick, Mix or Match? A Discussion of theories for Management Acounting reseach”, Journal of Accounting – Business and Management Vol.16 No.2 (2009) P54-66. 9. Jacob G. Birnberg, Joan Luft and Michael D. Shields (2007), "Agency Theory and Management Accounting", Handbook of Management Accounting Research Elsevier Ltd. All rights reserved. 10. Jesmin Islam1 and Hui Hu (2012), "A review of literature on contingency theory in managerial accounting", Journal of Accounting. Business & Management vol.19 no. 2, P. 44-58 ----------------------------
File đính kèm:
- ly_thuyet_dai_dien_van_dung_trong_nghien_cuu_ke_toan_quan_tr.pdf