Kiểm toán hoạt động trong lĩnh vực quản lý và xử lý nước thải khu công nghiệp: Tiếp cận từ quan điểm kinh tế

Mục đích của b hệ thống quản lý và xử lý nước thải khu công nghiệp (KCN), từ đó chỉ ra cách thức áp dụng loại hình kiểm toán hoạt động trong các cuộc kiểm toán nước thải KCN t Nam. Kết quả nghiên cứu chỉ ra: việc đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong ài báo nhằm làm rõ cơ sở lý luận về kiểm toán hoạt động và phân tích ại Việt công tác quản lý là tương đối khó khăn do khó xác định các yếu tố đầu vào của hoạt động quản lý nước thải KCN. Mặt khác, KTV nên sử dụng yếu tố như chất lượng nước mặt, nước ngầm, khối lượng nước thải được thu gom và chất lượng nước thải sau khi xử lý như là chỉ số để đánh giá tính hiệu lực của hoạt động thu gom và xử lý nước thải. Bên cạnh đó, KTV nên xem xét khả năng thu gom tối đa nước thải của hệ thống thu gom nước thải KCN và công suất xử lý nước thải tối đa của các nhà máy xử lý nước thải như là chỉ số so sánh để đánh giá tính hiệu quả của hoạt động thu gom và xử lý nước thải

pdf6 trang | Chuyên mục: Kiểm Toán Môi Trường | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 215 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Kiểm toán hoạt động trong lĩnh vực quản lý và xử lý nước thải khu công nghiệp: Tiếp cận từ quan điểm kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
hu gom được chuyển 
về nhà máy xử lý nước thải tập trung để xử lý trước 
khi xả vào nguồn tiếp nhận dưới sự giám sát của 
hệ thống quan trắc tự động và quan trắc định kỳ. 
Như vậy, mục tiêu của hoạt động thu gom và xử 
lý nước thải là thu gom và xử lý hết nước thải và 
đảm bảo chất lượng nước thải sau khi thải ra môi 
trường đạt tiêu chuẩn như đã cam kết trong ĐTM, 
kế hoạch BVMT hoặc đề án BVMT của KCN. Chất 
lượng nước thải sau khi xử lý phải đảm bảo giảm 
thiểu mức tối đa các tác động vào môi trường, con 
người và hệ sinh thái. Do đó, khi tiến hành kiểm 
toán cần thiết phải xem xét; (i) hệ thống thu gom 
và quá trình vận hành của hệ thống xử lý nước 
thải; (ii) chất lượng nước thải sau khi đã xử lý và 
những tác động đến môi trường, con người và hệ 
sinh thái. Mặt khác, để hệ thống thu gom và xử lý 
nước thải đi vào hoạt động thì cần phải có các yếu 
tố đầu vào như đội ngũ nhân lực để vận hành, điện, 
các hóa chất cần thiết, các thiết bị giám sát theo dõi 
để điều chỉnh hóa chất đầu vào đảm bảo chất lượng 
nước thải đầu ra. Do đó, khi tiến hành, KTV nên 
xem xét các yếu tố đầu vào để đánh giá tính kinh 
tế, tính hiệu quả của các hoạt động thu gom và xử 
lý nước thải KCN.
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN32 Số 117 - tháng 7/2017
lượng cấp giấy phép hoàn thành công trình; (iii) 
Quy trình và chất lượng cấp giấy phép xả nước thải 
vào nguồn nước; (iv) Các kết luận và thực hiện các 
kiến nghị của công tác thanh kiểm tra, giám sát của 
cơ quan chức năng. Chúng có thể được xác định 
như là kết quả đầu ra của quá trình quản lý và sử 
dụng để đánh giá tính kinh tế, hiệu lực, hiệu quả 
của quá trình quản lý. Tuy nhiên, để đánh giá được 
tính kinh tế, tính hiệu lực, tính hiệu quả đối với 
công tác quản lý cần phải xác định được các yếu tố 
đầu vào của hệ thống quản lý như: nguồn nhân lực, 
hệ thống các quy phạm pháp luật liên quan đến các 
hoạt động xả thải của KCN, các văn bản, quy trình 
cấp phép, phê duyệt, các phương tiện kỹ thuật cần 
thiết phục vụ cho công tác thanh kiểm tra, giám sát, 
thời gian triển khai các hoạt động quản lý, trong 
khi các yếu tố đầu vào này tương đối khó xác định. 
4.2. Đối với hoạt động thu gom và xử lý nước 
thải KCN
Mục tiêu cơ bản của hoạt động thu gom và xử lý 
nước thải KCN là số lượng nước thải phát sinh từ 
các hoạt động công nghiệp được thu gom và chất 
lượng nước thải sau khi xử lý thải ra môi trường. 
Trong đó, chất lượng nước thải sau khi xử lý xả 
thải vào nguồn tiếp nhận có thể tác động vào môi 
trường sống, gây ô nhiễm nước mặt và nước ngầm. 
Do đó, khi tiến hành kiểm toán, ngoài việc xem xét 
mức độ tuân thủ các cam kết và các quy phạm pháp 
luật BVMT, KTV cũng cần xem xét đến những tác 
động môi trường của nước thải sau xử lý đối với 
nguồn nước mặt, nước ngầm và hệ sinh thái.
Đánh giá tính hiệu lực: Đánh giá tính hiệu lực 
là việc so sánh giữa kết quả đầu ra thực tế và kết 
quả đầu ra kỳ vọng đối với quá trình hoạt động 
của một tổ chức, một chương trình hay một dự án. 
Trong hoạt động thu gom và xử lý nước thải KCN, 
mục tiêu cơ bản là giảm thiểu tối đa những tác 
động mà nước thải công nghiệp gây ra đối với môi 
trường và hệ sinh thái bao gồm: những tác động 
đến nguồn nước mặt, nước ngầm, hệ sinh thái, sức 
khỏe con người... Trên thực tế, hầu hết những cam 
kết BVMT của các KCN không lượng hóa mức độ 
tác động ngay từ khâu xây dựng và lập ĐTM, kế 
hoạch BVMT hay đề án BVMT chi tiết. 
Mặc dù khó khăn khi đánh giá tính hiệu lực 
thông qua tác động môi trường của hoạt động thu 
gom và xử lý nước thải KCN, KTV vẫn có thể đánh 
giá tính hiệu lực thông qua số lượng nước thải được 
thu gom và chất lượng nước thải sau khi đã xử lý. 
Điều này là do số lượng nước thải được thu gom 
và chất lượng nước thải đầu ra được xác định ngay 
từ khâu xây dựng và lập kế hoạch BVMT và chúng 
được xác định như mục tiêu ban đầu của hoạt động 
thu gom và xử lý nước thải. 
Đánh giá tính hiệu quả: Đánh giá tính hiệu quả 
là việc so sánh giữa đầu ra thực tế và đầu ra tối đa 
quá trình hoạt động của một tổ chức, một chương 
trình hay một dự án với cùng lượng yếu tố đầu vào. 
Thông thường việc đánh giá tính hiệu quả là xem 
xét lượng sản phẩm đầu ra của quá trình hoạt động. 
Đối với hoạt động thu gom và xử lý nước thải, thì 
lượng đầu ra thông thường là số lượng nước thải 
được thu gom và xử lý trên các yếu tố đầu vào như 
lượng hóa chất để xử lý nước thải, điện, nhân công, 
thiết bị máy móc, vv... Do đó, khi đánh giá tính 
hiệu quả của hoạt động thu gom và xử lý nước thải, 
KTV nên xem xét giữa công suất thiết kế hoạt động 
tối đa trên yếu tố đầu vào dự kiến khi lập kế hoạch 
so với khối lượng nước thải thực tế được xử lý trên 
yếu tố đầu vào thực tế. Tuy nhiên, KTV cũng cần 
lưu ý bản thân các yếu tố đầu vào là không đồng 
nhất. Do đó, KTV nên đồng nhất các yếu tố đầu 
vào bằng cách xác định các khoản chi phí bỏ ra đối 
với các yếu tố đầu vào hay nói cách khác, KTV nên 
xem xét tính hiệu quả của các hoạt động thu gom 
và xử lý nước thải trong khái niệm hiệu quả kinh tế.
Bên cạnh đó, mục tiêu của hoạt động thu gom 
nước thải và mục tiêu của các hoạt động xử lý là 
khác nhau, đôi khi được quản lý và vận hành bởi 
các tổ chức khác nhau. Trong đó, mục tiêu của các 
hoạt động thu gom nước thải là số lượng nước thải 
được thu gom hết, không rò rỉ, còn mục tiêu của 
hoạt động xử lý nước thải là toàn bộ lượng nước 
thải đã được thu gom sau khi xử lý. Do đó, trong 
trường hợp hoạt động thu gom và xử lý nước thải 
được vận hành và quản lý bởi hai tổ chức khác 
nhau, KTV nên đánh giá tính hiệu quả riêng biệt 
đối với hai hoạt động này để xác định trách nhiệm 
của các bên tham gia một cách minh bạch.
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 33Số 117 - tháng 7/2017
Đánh giá tính kinh tế: Đánh giá tính kinh tế 
là việc so sánh giữa chi phí đầu vào tối thiểu và chi 
phí đầu vào thực tế để vận hành hệ thống thu gom 
và xử lý nước thải hoạt động. Trong đó, chi phí đầu 
vào cho hoạt động thu gom và xử lý nước thải bao 
gồm các khoản chi phí: nhân công, điện, các loại 
hóa chất đầu vào và khấu hao tài sản cố định, thuế, 
v.v... Do đó, ngoài việc xác định các khoản mục chi 
phí đầu vào để vận hành hệ thống thì KTV cũng 
cần phải xác định các khoản chi phí đầu vào tối 
thiểu. Trong quá trình xác định chi phí đầu vào tối 
thiểu, KTV nên xem xét hai khía cạnh là số lượng 
đầu vào tối thiểu để vận hành hệ thống là bao nhiêu 
và giá của các khoản mục các yếu tố đầu vào hiện 
tại đã ở mức thấp nhất chưa. Sau khi xác định được 
tổng chi phí đầu vào tối thiểu, KTV so sánh với chi 
phí đầu vào thực tế mà hệ thống đang hoạt động.
5. kết luận và kiến nghị
Cho đến nay, kiểm toán môi trường là một trong 
những công cụ quản lý hữu hiệu trong công tác 
bảo vệ môi trường và phát triển bền vững ở nhiều 
quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, ở nước ta hiện 
nay, nhận thức về KTMT và triển khai, áp dụng các 
cuộc KTMT theo loại hình kiểm toán hoạt động 
vẫn gặp nhiều khó khăn. Do đó, nghiên cứu này với 
mục đích là làm rõ cơ sở lý luận về kiểm toán hoạt 
động và phân tích hệ thống quản lý và xử lý nước 
thải KCN ở nước ta, từ đó chỉ ra cách thức áp dụng 
loại hình kiểm toán hoạt động trong các cuộc kiểm 
toán nước thải KCN, nhằm góp phần phát triển 
loại hình kiểm toán hoạt động trong các cuộc kiểm 
toán nước thải KCN tại Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu cho thấy việc đánh giá tính 
kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong công tác quản lý 
là tương đối khó khăn, do khó xác định các yếu tố 
đầu vào một cách riêng biệt đối với một KCN khi 
tiến hành kiểm toán. Do đó, đối với hoạt động quản 
lý, KTV nên tập trung vào tính tuân thủ những quy 
phạm pháp luật về BVMT và xác định trách nhiệm 
của các tổ chức có liên quan trong quá trình thực 
thi nhiệm vụ nhà nước về quản lý môi trường. 
Mặt khác, đối với các hoạt động thu gom và xử 
lý nước thải, KTV nên xem xét chất lượng nước 
mặt, nước ngầm, số lượng nước thải được thu 
gom hết và chất lượng nước thải sau khi xử lý đã 
được cam kết trong ĐTM, đề án BVMT hay kế 
hoạch BVMT như là chỉ số cơ bản để đánh giá 
tính hiệu lực của hoạt động động thu gom và xử 
lý nước thải. Bên cạnh đó, thì khả năng thu gom 
nước thải tối đa và công suất xử lý nước thải tối đa 
có thể được xem xét như là chỉ số so sánh để đánh 
giá tính hiệu quả của hoạt động thu gom và xử lý 
nước thải. Các hạng mục như chi phí nhân công, 
chi phí hóa chất, chi phí điện vận hành hệ thống, 
chi phí khấu hao, v.v..., có thể được sử dụng như 
là chỉ số để đánh giá tính kinh tế của hệ thống thu 
gom và xử lý nước thải.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS.TS Đoàn Xuân Tiên, (2016), Hệ thống 
Chuẩn mực Kiểm toán nhà nước, Nhà Xuất 
bản Thống kê.
2. GAO, (2011), Government Auditing 
Standards, United States Government 
Accountability Office, GAO-12-331G. 
3. CCAF, (2008), The Role of Supreme Audit 
Institutions in International Development, 
Canadian Comprehensive Audit 
Foundation, Number 7051912. 
4. INTOSAI, (2016), Guidance on Conducting 
Performance Audit with an Environmental 
Perspective, INTOSAI, ISSAI 5110.
5. Jan Østergaard, (2016), Bài giảng giới thiệu 
về quyền hạn, chức năng và nhiệm vụ của 
Kiểm toán nhà nước Đan Mạch, Chương 
trình đào tạo kiểm toán môi trường Đan 
Mạch 25 – 26/10/2016.
6. Thông tư số: 35/2015/TT-BTNMT về bảo vệ 
môi trường khu kinh tế, khu công nghiệp, 
khu chế xuất, khu công nghệ cao, ngày 30 
tháng 6 năm 2015 của Bộ TNMT.
7. Luật Tài nguyên nước số: 17/2012/QH13, 
Quốc hội nước CHXHCNVN khóa XIII, kỳ 
họp thứ 3 thông qua ngày 21/6/2012.
8. Phan Trường Giang, (2016), Phát triển 
kiểm toán môi trường ở KTNN - hướng đi 
phù hợp với xu hướng và thông lệ quốc tế, 
Tạp chí nghiên cứu khoa học kiểm toán, số 
103-5/2016.
9. Lê Doãn Hoài và Nguyễn Viết Hãnh, (2016), 
Kiểm toán môi trường tại Việt Nam: Thời 
cơ và thách thức, Tạp chí Nghiên cứu Khoa 
học Kiểm toán, số 103-5/2016.

File đính kèm:

  • pdfkiem_toan_hoat_dong_trong_linh_vuc_quan_ly_va_xu_ly_nuoc_tha.pdf