Kiểm định mô hình VAR về sự tồn tại và hiệu quả của các kênh tín dụng Việt Nam
Tóm tắt
Chính sách tiền tệ đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế. Bài viết chứng minh sự
tồn tại và đo đạc mức độ khuếch đại hiệu lực chính sách tiền tệ của kênh tín dụng ngân hàng ở nền
kinh tế Việt Nam. Với công cụ định lượng, đề tài sử dụng mô hình VAR để đo đạc mức độ tương tác
giữa biến chính sách tiền tệ (cung tiền) với các biến đặc trưng cho nền kinh tế thực (sản lượng hoặc
lạm phát) khi giả định có tồn tại và không có tồn tại kênh tín dụng ngân hàng, từ đó đo đạc được
mức độ khuếch đại hiệu lực chính sách tiền tệ của kênh này lên nền kinh tế thực. Kết quả nghiên
cứu cho thấy chính sách tiền tệ ngoài việc truyền dẫn thông qua các kênh cổ điển như tỷ giá hoặc
lãi suất, nó còn chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi kênh tín dụng ngân hàng. Kết quả thực nghiệm đã
chứng minh có tồn tại một kênh tín dụng ngân hàng ở nền kinh tế Việt Nam và kênh truyền dẫn này
khuếch đại đáng kể hiệu lực tác động của chính sách tiền tệ lên nền kinh tế thực.
vào những đặc điểm riêng của hệ thống ngân hàng cũng như của thị trường vốn. Hệ thống ngân hàng càng tập trung, quy mô ngân hàng càng lớn và khỏe mạnh thì chính sách tiền tệ truyền dẫn thông qua kênh tín dụng ngân hàng càng trở nên suy yếu. Tương tự, thị trường vốn càng phát triển, doanh nghiệp và hộ gia đình càng có cơ hội thay thế các nguồn vốn vay tín dụng ngân hàng bởi nguồn vốn huy động trên thị trường vốn thì các tác động của chính sách tiền tệ thông qua kênh tín dụng ngân hàng càng trở nên mờ nhạt. Dựa trên cơ sở đó, khi thực thi chính sách tiền tệ, Chính phủ cần cân nhắc đến cả các đặc điểm riêng của thị trường vốn cũng như hệ thống ngân hàng trong nước. Mọi quy định làm thay đổi cấu trúc của thị trường vốn hoặc cấu trúc của hệ thống ngân hàng thì cũng có thể làm suy yếu (hoặc khuếch đại) hiệu lực của chính sách tiền tệ truyền dẫn thông qua kênh này. Theo như khung lý thuyết đã phân tích, trong tương lai gần, khả năng khuếch đại hiệu lực chính sách tiền tệ của kênh tín dụng ngân hàng ở Việt Nam có thể bị ảnh hưởng bởi các sự kiện sau: - Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015: Đây là đề án ban hành tháng 3 năm 2012 của Chính phủ nhằm mục đích cơ cấu lại căn bản, triệt để và toàn diện hệ thống các tổ chức tín dụng để đến năm 2020 phát triển được hệ thống tín dụng đa năng theo hướng hiện đại, an toàn và hiệu quả vững chắc. Khi quá trình tái cơ cấu thành công, hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ trở nên lành mạnh hơn về năng lực tài chính và tăng nhanh hơn về quy mô. Các ngân hàng yếu kém sẽ bị sát nhập, cùng với đó là việc cổ phần hóa hoàn toàn các ngân hàng Nhà nước; tỉ lệ nợ xấu sẽ giảm và hệ số an toàn vốn được tăng lên ngưỡng an toàn Basel II. Sự thay đổi này sẽ góp phần giúp hệ thống ngân hàng phản ứng tốt hơn với những cú sốc bên cung tín dụng gây ra bởi chính sách tiền tệ, do vậy sẽ làm giảm hiệu lực của chính sách tiền tệ truyền dẫn thông qua kênh tín dụng ngân hàng. - Sự phát triển của thị trường vốn: Mặc dù thị trường chứng khoán vẫn đang trên đà hồi phục từ cuộc suy thoái kinh tế thế giới 2011, TAØI CHÍNH 65Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 81 (4/2016) cũng như thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang ở bước đầu của thời kỳ phát triển, hai thị trường này cũng đã chứng minh được vai trò của mình như là một kênh dẫn vốn thứ hai cho doanh nghiệp và hộ giai đình song song cùng kênh tín dụng ngân hàng. Trong tương lai, thị trường vốn sẽ phát triển hơn nữa về cả chất lượng cũng như quy mô là điều tất yếu xảy ra ở một nền kinh tế mới nổi như Việt Nam. Cùng với đó, Chính phủ cũng đang có nhiều động thái tích cực trong việc đẩy nhanh hơn nữa sự mở rộng của thị trường vốn như ban hành Quyết định phê duyệt lộ trình phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam năm 2013, Đề án phát triển thị trường chứng khoán phái sinh năm 2014, Điều này hàm ý doanh nghiệp và hộ gia đình sẽ có nhiều cơ hội và lựa chọn hơn trong việc huy động tài chính từ thị trường vốn, giảm đi sự phụ thuộc quá nhiều vào tín dụng ngân hàng trong các quyết định chi tiêu và đầu tư. Điều này dẫn tới hệ quả là hiệu lực của kênh tín dụng ngân hàng sẽ suy giảm đáng kể trong tương lai. Các kết quả định lượng thu được trong bài nghiên cứu cũng đã chứng minh cho luận điểm này: thị trường vốn Việt Nam chỉ chiếm tỉ trọng dưới 3% so với thị trường tín dụng ngân hàng ở giai đoạn trước 2005 và tăng lên trên 15% giai đoạn sau 2005; điều này khiến mức độ giải thích của tín dụng cho sản lượng giảm từ 8.37% trong giai đoạn trước năm 2005 xuống còn 1.62% trong giai đoạn sau năm 2005. Nếu tỉ trọng của thị trường vốn so với tín dụng ngân hàng càng được mở rộng, mức độ ảnh hưởng của kênh tín dụng ngân hàng tới nền kinh tế thực sẽ càng giảm dần theo thời gian. Như vậy, Chính phủ khi thực thi chính sách tiền tệ không những cần quan tâm đến các kênh truyền dẫn cổ điển mà còn phải chú trọng đến cả sự khuếch đại hiệu lực chính sách tiền tệ thông qua kênh tín dụng ngân hàng. Về mặt lý thuyết, Chính phủ có thể quản lý mức độ khuếch đại hiệu lực chính sách tiền tệ của kênh này bằng cách ban hành các quy định hành chính tác động lên thị trường ngân hàng và thị trường vốn, chẳng hạn như hạ mức quy định tỉ lệ an toàn vốn của các ngân hàng thương mại hoặc nâng điều kiện phát hành trái phiếu của hệ thống doanh nghiệp. Động thái này có thể giúp doanh nghiệp phụ thuộc hơn vào thị trường tín dụng và ngân hàng sẽ chống đỡ kém hơn với các cú sốc chính sách tiền tệ, tạo điều kiện cho chính sách tiền tệ khuếch đại được hiệu lực của mình lên nền kinh tế thực. Ngoài ra, các công trình thực nghiệm gần đây tại nhiều quốc gia như Mỹ (Den Haan & cộng sự, 2007), Canada (Den Haan & cộng sự, 2009), hay Pháp (Mesonier, 2008) cũng đã chỉ ra rằng cấu trúc của danh mục đầu tư các khoản cho vay của ngân hàng cũng ảnh hưởng đáng kể đến phản ứng của họ (ngân hàng) trước các cú sốc tiền tệ. Bằng chứng là các ngân hàng sẽ điều chỉnh danh mục đầu tư theo hướng giảm kỳ hạn và rủi ro các khoản cho vay của mình trong thời kỳ thắt chặt chính sách tiền tệ. Chẳng hạn ở Canada, theo kết quả thực nghiệm của Den Haan & cộng sự (2007), các khoản cho vay tiêu dùng sẽ giảm và các khoản cho vay thương mại sẽ tăng trong thời kỳ thắt chặt chính sách tiền tệ; điều này được nhóm tác giả giải thích là do rủi ro của vay tiêu dùng là lớn hơn so với các khoản vay thương mại. Hoặc ở Pháp, hàm phản ứng đẩy của mô hình VAR đã chỉ ra các khoản tín dụng ngân hàng ngắn hạn dành cho doanh nghiệp lại có xu hướng tăng trong thời kỳ thắt chặt chính sách tiền tệ trong khi đó các khoản cho vay mua nhà của hộ gia đình và các khoản đầu tư sản xuất dài hạn lại có xu hướng giảm. Kết quả này gợi ý rằng những nhân tố có thể TAØI CHÍNH 66 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 81 (4/2016) tác động đến cấu trúc danh mục đầu tư của ngân hàng thì cũng có thể tác động đến mức độ phản ứng của họ (ngân hàng) trước các cú sốc chính sách tiền tệ, từ đó làm thay đổi hiệu lực của kênh tín dụng ngân hàng. Điều này gợi ý cho các nhà hoạch định chính sách có thể dùng các công cụ trái phiếu Chính phủ để tác động đến hiệu lực của kênh tín dụng ngân hàng1. Để trả lời cho câu hỏi mức độ tác động của công cụ trái phiếu Chính phủ tới hiệu quả của kênh tín dụng ngân hàng ở Việt Nam tới đâu, nhóm tác giả sẽ cần tiến hành thêm các bài nghiên cứu thực nghiệm mở rộng trong tương lai.q Tài liệu tham khảo 1. Ando, A. & Modigliani, F, 1963, The “Life cycle” hypothesis of saving: Aggregate implications and tests, The American Economic Review, 53(1), Phần 1, Tr. 55-84. 2. Bernanke, B. & Blinder, A, 1988, Credit, money and aggregate demand, NBER working papers No. 2534, National Bureau of Economic Research. 3. Brissmis, S.N. & Magginas, N.S, 2003, Changes in financial structure and asset price substitutability: A test of the bank lending channel, Bank of Greece working papers No. 05. 4. Brumberg, R E. & Modigliani, F, 1954, Utility analysis and the consumption function: An interpretation of cross-section data, Rutgers University Press, New Jersey. 1 Hệ thống ngân hàng luôn có nhu cầu nắm giữ trái phiếu Chính phủ nhằm mục đích đảm bảo thanh khoản, dự trữ hoặc đầu tư. Việc giảm kỳ hạn bình quân của trái phiếu Chính phủ có thể góp phần làm giảm kỳ hạn bình quân của danh mục đầu tư của ngân hàng, từ đó khiến ngân hàng phản ứng tốt hơn trước các cú sốc thắt chặt chính sách tiền tệ. TAØI CHÍNH 67Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 81 (4/2016) 5. Chu Khánh Lân, 2013, Nghiên cứu thực nghiệm về truyền dẫn chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng tại Việt Nam, Tạp chí ngân hàng, 5, Tháng 3-2013, Tr. 17-23. 6. Den Haan, W.J. & Sumner, S.W. & Yamashiro, G.M, 2007, Bank loan portfolios and the monetary transmission mechanism, Journal of Monetary Economics, Elsevier, 54, Tr. 904-924 7. Den Haan, W.J. & Sumner, S.W. & Yamashiro, G.M, 2009, Bank loan portfolios and the Canadian monetary transmission mechanism, Canadian Journal of Economics, 42, Tr. 1150-1175. 8. Fleming, J. M, 1962, Domestic financial policies under fixed and under floating exchange rates, IMF staff papers, 9(3), Tr. 369-380. 9. Friedman, M, 1957, A theory of the consumption function, Princeton University Press, New Jersey. 10. Jorgenson, D, 1963, The American Economic Review, Vol. 53, No. 2, papers and proceedings of the 75th annual meeting of the American Economic Association, pp. 247-259. 11. Kashyap, A.K. & Stein, J.C, 2000, What do a million observations on banks say about the transmission of monetary policy, The American Economic Review, 90(3), Tr. 407- 428. 12. Le Viet, H. & Pfau, W. D, 2009, VAR analysis of the monetary transmission mechanism in Vietnam, Applied Econometrics and Internation Development, Euro-American Association of Economic Development, Vol. 9. 13. Mesonnier, J.S, 2008, Bank loan portfolios, bank heterogeneity and the bank lending channel: New macro evidence for France, truy cập ngày 15 tháng 04 năm 2014. 14. Mishkin, F.S, 2009, The economics of money, banking and financial market, 9th E, Addison Wesley, New York. 15. Mishkin, F.S., Boivin, J. & Kiley, M.T, 2010, How has the the monetary transmission mechanism evolved over time?, NBER working papers No. 15879, National Bureau of Economic Research. 16. Mundell, R.A, 1963, Capital mobility and stabilization policy under fixed and flexible exchange rates, Canadian Journal of Economuics 29, Tr. 475-485. 17. Nguyễn Văn Tiến, 2010, Giáo trình kinh tế tiền tệ ngân hàng, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội 18. Oliner, S.D. & Rudenbusch, G.D, 1996, Is there a board credit channel for monetary policy?, Economic Review, Federal Reserve Bank of San Francisco, Tr. 3-13. 19. Tobin, J, 1969, A general equilibrium approach to monetary theory, Journal of money, credit and banking, 1(1), Tr. 15-29.
File đính kèm:
- kiem_dinh_mo_hinh_var_ve_su_ton_tai_va_hieu_qua_cua_cac_kenh.pdf