Hướng dẫn hồi sức cấp cứu 2010 - Chương 6: Hướng dẫn hồi sức cấp cứu nội viện
Giới thiệu
Hướng dẫn này chủ yếu dành cho các nhân viên y tế, những người đầu tiên phản ứng với một ca
ngưng tim tại bệnh viện. Hướng dẫn này cũng có thể dùng cho các nhân viên làm việc tại các cơ
sở y tế khác ngoài bệnh viện.
Trong một ca ngưng tim tại bệnh viện, ranh giới giữa hồi sức hồi sức cấp cứu căn bản và hồi sức
cấp cứu nâng cao là không rõ ràng; trong thực tế, quá trình hồi sức cấp cứu có diễn tiến liên tục.
Trong tất cả các ca ngưng tim nội viện cần đảm bảo:
● Ngưng tim phổi được nhận dạng ngay lập tức;
● Yêu cầu trợ giúp thông qua một số điện thoại nội bộ được chuẩn hóa (ví dụ 2222);88
● Hồi sức tim phổi (CPR) được tiến hành ngay lập tức sử dụng dụng cụ hỗ trợ, ví dụ như
mask bỏ túi (pocket mask) và nếu phù hợp thì tiến hành khử rung tim càng sớm càng tốt,
đảm bảo sớm hơn 3 phút.
Tất cả các ca ngưng tim nội viện cần được đánh giá theo chương trình đánh giá và cải tiến chất
lượng. Chi tiết quá trình hồi sức cần được ghi chép lại sau mỗi ca. Chương Trình Đánh Giá
Ngưng Tim Quốc Gia (The National Cardiac Arrest Audit) giúp các bệnh viện thu thập các dữ
liệu đã được chuẩn hóa và theo dõi các thay đổi trong các vấn đề liên quan đến ngưng tim.
với một máy khử rung và tiến hành shock tim. Dù có ít bằng chứng, nhưng AED nên được cân nhắc trang bị cho bệnh viện nhằm thúc đẩy việc khử rung tim sớm (mục tiêu là 8 trong vòng 3 phút từ khi người bệnh “té xỉu”), nhất là tại những khu vực mà nhân viên y tế không có kĩ năng đọc ECG hoặc không thường xuyên sử dụng máy khử rung. Kĩ năng của những người ứng cứu Tất cả các nhân viên có chuyên môn y tế nên biết cách nhận diện ngưng tim, gọi sự giúp đỡ và tiến hành hồi sức cấp cứu. Nhân viên nên làm những gì họ đã được huấn luyện để làm. Ví dụ như nhân viên chăm sóc bệnh nặng hoặc nhân viên khoa cấp cứu có thể có các kĩ năng hồi sức cấp cứu cao cấp hơn là những nhân viên không tham gia thường xuyên vào hồi sức cấp cứu trong công việc hàng ngày của họ. Nhân viên bệnh viện có mặt tại ca ngưng tim có thể có năng lực khác nhau trong việc kiểm soát đường thở, hô hấp và tuần hoàn. Những người ứng cứu nên sử dụng những kĩ năng hồi sức mà họ đã được huấn luyện. Khóa học Hồi Sức Cấp Cứu Căn Bản (Immediate Life Support – ILS) của Hội Đồng Hồi Sức Cấp Cứu UK có đối tượng học viên là phần lớn các nhân viên có chuyên môn y tế, những người hiếm khi bắt gặp tình huống ngưng tim nhưng có khả năng là người phản ứng đầu tiên hoặc có khả năng là thành viên của đội hồi sức cấp cứu.98 Một nghiên cứu gần đây cho thấy số lượng gọi báo động ngưng tim giảm trong khi số lượng gọi báo động khi nhận thấy dấu hiệu của ngưng tim tăng sau khi triển khai chương trình trong đó có việc huấn luyện ILS tại 2 bệnh viện. Đi kèm với đó là gia tăng khả năng sống sau ngưng tim và khả năng sống sau khi xuất viện.79 Khóa học này dạy cho nhân viên có chuyên môn y tế các kĩ năng mà nếu áp dụng trong khi chờ đội cấp cứu đến sẽ có thể dẫn đến một cuộc hồi sức cấp cứu thành công. Khóa học Hồi Sức Cấp Cứu Nâng Cao của Hội Đồng Hồi Sức Cấp Cứu UK (ALS) nhắm đến các bác sĩ và điều dưỡng có kinh nghiệm đang làm việc trong các khu vực chăm sóc cấp tính của bệnh viện và những người có khả năng trở thành lãnh đạo hoặc thành viên của đội cấp cứu.99, 100 Khóa học cũng thích hợp cho các nhân viên hỗ trợ cấp cứu và một số kĩ thuật viên trong bệnh viện. Trong quá trình huấn luyện cũng như thực hành y khoa nên có thêm sự nhấn mạnh vào các kĩ năng mềm (non-technical skills - NTS).101 Bao gồm đánh giá được tình huống, ra quyết định, làm việc nhóm trong làm việc nhóm có bao gồm kĩ năng lãnh đạo nhóm và quản lý công việc. Các công cụ như SBAR hoặc RSVP nên được dùng để đảm bảo truyền đạt và bàn giao thông tin nhanh và hiệu quả. Số lượng người ứng cứu Người ứng cứu duy nhất phải đảm bảo được là những người ứng cứu khác đang trên đường đến. Nếu các nhân viên khác ở gần đó, có thể thực hiện nhiều hành động một lúc. Nhân lực bệnh viện thường ít nhất trong đêm hoặc cuối tuần, điều này có thể ảnh hưởng đến việc theo dõi, ứng cứu và kết quả cấp cứu của người bệnh. Dữ liệu từ Số Liệu Điều Tra CPR Quốc Gia Hoa Kì (US National Registry of CPR Investigators) cho thấy tỉ lệ sống sót trong các ca ngưng tim nội viện thấp hơn trong đêm và cuối tuần.102 Một số nghiên cứu chỉ ra rằng số lượng điều dưỡng đông 9 hơn có liên quan đến việc giảm tỉ lệ thất bại trong cứu chữa và giảm số vụ ngưng tim, viêm phổi, sốc và tử vong.103-105 Dụng cụ/trang thiết bị Lý tưởng nhất là các dụng cụ trang thiết bị sử dụng cho CPR (bao gồm máy khử rung tim) và vị trí để của các trang thiết bị và thuốc được chuẩn hóa trong toàn bệnh viện.106, 107 Một cuộc đánh giá được thực hiện bởi Hội Đồng Hồi Sức Cấp Cứu UK về các sự cố nghiêm trọng trong an toàn người bệnh có liên quan đến CPR và quá trình diễn tiến xấu của người bệnh được báo cáo cho Cục An Toàn Người Bệnh Quốc Gia (National Patient Safety Agency) chỉ ra rằng các vấn đề với trang thiết bị thường là một trong những nguyên nhân. Tất cả các trang thiết bị hồi sức cấp cứu phải được kiểm tra thường xuyên nhằm đảm bảo chúng ở trong trạng thái sẵn sàng để dùng. AED nên được cân nhắc cho các khu vực mà nhân viên không có kĩ năng đọc ECG hoặc hiếm khi nào cần tới máy khử rung. Những bệnh viện hoặc những ê-kíp thường xuyên xử lý các ca ngưng tim nên có các trang thiết bị và máy móc theo dõi nhằm vận chuyển người bệnh sau khi họ đã được hồi sức cấp cứu. Chúng bao gồm các máy monitor di động với tối thiểu các tính năng là theo dõi độ bão hòa oxy, ECG, đo huyết áp không xâm lấn và capnography dạng sóng cho người bệnh được hô hấp nhân tạo. Để tìm hiểu thêm hãy tham khảo Các Hướng Dẫn Về Vận Chuyển Người Trưởng Thành Bệnh Nặng (Guidelines for the Transport of the Critically ill Adult) của Hội Chăm Sóc Đặc Biệt (Intensive Care Society). Đội Cấp Cứu Đội hồi sức cấp cứu có thể xây dựng từ mô hình của một đội cấp cứu ngưng tim truyền thống vốn chỉ được gọi khi có ca ngưng tim. Ngoài ra bệnh viện có thể xây dựng chiến lược nhận diện những người bệnh có nguy cơ ngưng tim và sắp xếp gọi đội cấp cứu trước khi xảy ra ngưng tim. Thuật ngữ “đội hồi sức cấp cứu” phản ánh phạm vi của đội ứng cứu. Các ca ngưng tim nội viện hiếm khi xảy ra bất ngờ. Một chiến lược nhận diện những người bệnh có nguy cơ ngưng tim có thể giúp ngăn chặn một số ca xảy ra hoặc có thể ngăn các nỗ lực hồi sức vô ích trên những người bệnh mà CPR dường như không có ích cho họ (Xem chương về ngăn chặn các ca ngưng tim nội viện và các quyết định về CPR). Các khảo sát chỉ ra rằng các đội hồi sức cấp cứu hiếm khi có cuộc trao đổi nhằm tóm tắt diễn tiến trước tình huống và sau tình huống (briefing và debriefing).108-110 Các thành viên đội hồi sức cấp cứu nên tập họp để nghe giới thiệu tóm tắt về tình huống và hoạch định hành động phản ứng trước khi họ tham gia ứng cứu. Các thành viên đội nên rút ra kết luận sau mỗi tình huống dựa trên thực tế những gì họ đã làm trong cuộc cấp cứu. Lý tưởng nhất là dựa trên dữ liệu thu thập từ tình huống.111 Chương trình Đánh Giá Ngưng Tim Quốc Gia (National Cardiac Arrest Audit – NCAA) 10 Tất cả các ca ngưng tim nội viện nên được xem xét và đánh giá. NCAA là một cơ sở dữ liệu của toàn Liên Hiệp Anh Và Bắc Ireland về các ca ngưng tim nội viện và được hỗ trợ bởi Hội Đồng Hồi Sức Cấp Cứu UK (Resuscitation Coucil - RC) vàvà thúc đẩy các cải tiến trong việc ngăn chặn, cứu chữa và cải thiện kết quả các ca ngưn Trung Tâm Đánh Giá & Nghiên Cứu Hồi Sức Tích Cực (Intensive Care National Audit & Research Centre - ICNARC). NCAA theo dõi và báo cáo các ca ngưng tim nội viện và kết quả của chúng nhằm hỗ trợ cho việc xây dựng các quy định thực hành và các chính sách. NCAA hướng đến việc nhận diện g tim. Việc tham gia vào NCAA nghĩa là bệnh viện của bạn thu thập và đóng góp vào cơ sở dữ liệu về ngưng tim của quốc gia và đã được chuẩn hóa qua đó thúc đẩy cải tiến trong chăm sóc người bệnh.57, 112, 113 Chẩn đoán ngưng tim Các nhân viên y tế đã qua huấn luyện không thể đánh giá hô hấp và mạch với mức độ chính xác đủ tin cậy để xác nhận ngưng tim.114-123 Thở ngáp (ngáp ngắt quãng, chậm, nặng nề hoặc có âm thanh lạ) thường xuất hiện ngay sau ngưng tim là dấu hiệu của ngưng tim và không nên nhầm lẫn với dấu hiệu của sự sống/tuần hoàn.10, 124-126 Thở ngáp cũng có thể xuất hiện khi đang ép tim do sự thông máu não được cải thiện, nhưng đó không phải là dấu hiệu của hồi phục tuần hoàn tự phát (return of spontaneous circulation – ROSC). Thực hiện ép tim ngoài lồng ngực trên một người bệnh có tim đang đập dường như không có khả năng gây hại.127 Tuy nhiên, trì hoãn trong chẩn đoán ngưng tim và bắt đầu CPR sẽ ảnh hưởng xấu đến khả năng sống sót và phải tránh điều này. CPR chất lượng cao Chất lượng ép tim trong các ca ngưng tim-phổi nội viện thường không tối ưu. 12, 15 Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ép tim liên tục, không gián đoạn không bao giờ là thừa. Ngay cả những khoảng thời gian gián đoạn nhỏ trong ép tim cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả và cần cố gắng tối đa để đảm bảo duy trì việc ép tim liên tục, hiệu quả trong suốt quá trình hồi sức cấp cứu. Nên thay đổi người ép tim mỗi 2 phút nhưng đảm bảo thời gian gián đoạn là nhỏ nhất. Chiến lược khử rung tim Độ dài thời gian tạm dừng trước khi shock tim (khoảng thời gian giữa thời điểm dừng ép tim và thời điểm shock tim) tỉ lệ nghịch với khả năng shock tim thành công. Cứ mỗi 5 giây tăng thêm trong thời gian tạm dừng trước khi shock làm giảm 50% khả năng shock tim thành công, do đó vấn đề sống còn ở đây là phải giảm thời gian tạm dừng này.13 Độ dài lê thê của thời gian kiểm tra an toàn “từ đầu đến chân” (top-to-toe safety check) sau khi máy khử rung đã sẵn sàng và trước khi tiến hành shock, phổ biến trong giảng dạy và thực hành, sẽ làm giảm nghiêm trọng khả năng khử rung thành công. Các tài liệu hướng dẫn và giảng dạy của RC trước đây nói rằng khoảng dừng trước khi shock nên nhỏ hơn 10 giây; chúng tôi tin rằng chúng ta có thể giảm nó xuống dưới 5 giây mà không gây nguy hiểm cho những người ứng cứu. 11 Những người ứng cứu không nên thỏa hiệp về vấn đề an toàn. Các hành động nên được dự tính trước khi dừng ép tim. Nếu có trì hoãn do khó phân tích nhịp tim hoặc nếu người ứng cứu vẫn đang chạm vào nạn nhân, nên bắt đầu ép tim lại trong khi vẫn lên kế hoạch cho những gì cần làm trong lần dừng ép tim kế tiếp. Người ứng cứu nên mang găng tay trong khi thực hiện CPR. Nếu không có găng thì cũng vẫn làm CPR. Mang găng có thể làm giảm rủi ro người ứng cứu vô tình bị shock điện, mặc dù vấn đề này vẫn cần được nghiên cứu thêm.128 Tuy không có dữ liệu ủng hộ cho chiến lược 3 cú shock, ít có khả năng là ép tim sẽ tăng khả năng ROSC vốn đã rất cao khi khử rung tim được thực hiện sớm trong pha điện (electrical phase), ngay khi nhịp tim là VF/VT. Trong các tình huống có thể thực hiện ngay việc khử rung tim (phòng thông tim, người bệnh phẫu thuật tim mạch đang được theo dõi, người bệnh có VF/VT với người chứng kiến và theo dõi và đang được kết nối với máy khử rung) 3 cú shock tim liên tục có thể đạt ROSC mà không cần phải ép tim.
File đính kèm:
- huong_dan_hoi_suc_cap_cuu_2010_chuong_6_huong_dan_hoi_suc_ca.pdf