Giáo trình Vi điều khiển 8051 Assembly - Chương 14: Phối ghép 8031/51 với bộ nhớ ngoài

Trong phần này ta nhớ về các kiểu loại bộ nhớ bán dẫn khác nhau và các đặc

tính của chúng như dụng lượng, tổ chức và thời gian truy cập. Trong thiết kế của tất

cả các hệ thống dựa trên bộ vi sử lý thì các bộ nhớ bán dẫn được dùng như hơi lưu

giữ chương trình và dữ liệu chính. Các bộ nhớ bán dẫn được nối trực tiếp với CPU và

chúng là bộ nhớ mà CPU đầu tiên hỏi về thông tin chương trình và dữ liệu. Vì lý do

này mà các bộ nhớ nhiều khi được coi như là nó phải đáp ứng nhanh cho CPU mà

các điều này chỉ có các bộ nhớ bán dẫn mới có thể làm được. Các bộ nhớ bán dẫn

được sử dụng rộng rãi nhất là ROM và RAM. Trước khi đi vào bàn các kiểu bộ nhớ

ROM và RAM chúng ta làm quen với một số thuật ngữ quan trọng chung cho tất cả

mọi bộ nhớ bán dẫn như là dung lượng, tổ chức và tốc độ.

pdf4 trang | Chuyên mục: Kiến Trúc Máy Tính | Chia sẻ: dkS00TYs | Lượt xem: 3001 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt nội dung Giáo trình Vi điều khiển 8051 Assembly - Chương 14: Phối ghép 8031/51 với bộ nhớ ngoài, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
Chương 14 
Phối phép 8031/51 với bộ nhớ ngoài 
14.1 Bộ nhớ bán dẫn. 
 Trong phần này ta nhớ về các kiểu loại bộ nhớ bán dẫn khác nhau và các đặc 
tính của chúng như dụng lượng, tổ chức và thời gian truy cập. Trong thiết kế của tất 
cả các hệ thống dựa trên bộ vi sử lý thì các bộ nhớ bán dẫn được dùng như hơi lưu 
giữ chương trình và dữ liệu chính. Các bộ nhớ bán dẫn được nối trực tiếp với CPU và 
chúng là bộ nhớ mà CPU đầu tiên hỏi về thông tin chương trình và dữ liệu. Vì lý do 
này mà các bộ nhớ nhiều khi được coi như là nó phải đáp ứng nhanh cho CPU mà 
các điều này chỉ có các bộ nhớ bán dẫn mới có thể làm được. Các bộ nhớ bán dẫn 
được sử dụng rộng rãi nhất là ROM và RAM. Trước khi đi vào bàn các kiểu bộ nhớ 
ROM và RAM chúng ta làm quen với một số thuật ngữ quan trọng chung cho tất cả 
mọi bộ nhớ bán dẫn như là dung lượng, tổ chức và tốc độ. 
14.1.1 Dung lượng nhớ. 
 Số lượng các bít mà một chíp nhớ bán dẫn có thể lưu được gọi là dung lượng 
của chíp, nó có đơn vị có thể là ki-lô-bít (Kbít), mê-ga-bit (Mbít) v.v… Điều này 
phải phân biết với dung lượng lưu trữ của hệ thống máy tính. Trong khi dung lượng 
nhớ của một IC nhớ luôn được tính theo bít, còn dung lượng nhớ của một hệ thống 
máy tính luôn được cho tính byte. Chẳng hạn, trên tạp chí kỹ thuật có một bài báo 
nói rằng chíp 16M đã trở nên phổ dụng thì mặc dù nó không nói rằng 16M nghĩa là 
16 mê-ga-bit thì nó vẫn được hiểu là bài báo nói về chíp IC nhớ. Tuy nhiên, nếu một 
quảng cáo nói rằng một máy tính với bộ nhớ 16M vì nó đang nói về hệ thống máy 
tính nên nó được hiểu 16M có nghĩa là 16 mê-ga-byte. 
14.1.2 Tổ chức bộ nhớ. 
 Các chíp được tổ chức vào một số ngăn nhớ bên trong mạch tích hợp IC. Mỗi 
ngăn nhớ có chứa bộ bít, 4 bít, 8 bít thậm chí đến 16 bít phụ thuộc vào cách nó được 
thiết kế bên trong như thế nào? Số bít mà mỗi ngăn nhớ bên trong chíp nhớ có thể 
chứa được luôn bằng số chân dữ liệu trên chíp. Vậy có bao nhiêu ngăn nhớ bên 
trong một chíp nhớ? Nó phụ thuộc vào số chân địa chỉ, số ngăn nhớ bên trong một 
IC nhớ luôn bằng 2 luỹ thừa với số chân địa chỉ. Do vậy, tổng số bít mà IC nhớ có 
thể lưu trữ là bằng số ngăn nhớ nhân với bít dữ liệu trên mỗi ngăn nhớ. Có thể tóm 
tắt lại như sau: 
1. Một chíp nhớ có thể chứa 2x ngăn nhớ, với x là số chân địa chỉ. 
2. Mỗi ngăn nhớ chứa y bít với y là số chân dữ liệu trên chíp. 
3. Toàn bộ chíp chứa (2x ´ y)bít với x là số chân địa chỉ và y là số chân dữ liệu trên 
chíp. 
14.1.3 Tốc độ. 
 Một trong những đặc tính quan trọng nhất của chíp nhớ là tốc độ truy cập dữ 
liệu của nó. Để truy cập dữ liệu thì địa chỉ phải có ở các chân địa chỉa, chân đọc 
READ được tích cực và sau một khoảng thời gian thì dữ liệu sẽ xuất hiện ở các chân 
dữ liệu. Khoảng thời gian này càng ngắn càng tốt và tất nhiên là chíp nhớ càng đắt. 
Tốc độ của chíp nhớ thường được coi như là thời gian truy cập của nó. Thời gian truy 
cập của các chíp nhớ thay đổi từ vài na-nô-giây đến hàng trăm na-nô-giây phụ thuộc 
vào công nghệ sử dụng trong quá trình thiết kế và sản xuất IC. 
 Cả ba đặc tính quan trọng của bộ nhớ là dung lượng nhớ, tổ chức bộ nhớ và 
thời gian truy cập sẽ được sử dụng nhiều trong chương trình. Bảng 14.1 như một 
tham chiếu để tính toán các đặc tính của bộ nhớ. Các ví dụ 14.1 và 14.2 sẽ minh hoạ 
những khái niệm vừa trình bày. 
 Bảng 14.1: Dung lượng bộ nhớ với số chân địac chỉ của IC. 
x 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 
2x 1K 2K 4K 8K 16
K 
32
K 
64
K 
12
8K 
25
6K 
51
2K 
1
M 
2
M 
4
M 
8
M 
16
M 
Ví dụ 14.1: 
 Một chíp nhớ có 12 chân địa chỉ và 4 chân dữ liệu. Hãy tìm tổ chức bộ nhớ và 
dung lượng nhớ của nó. 
Lời giải: 
a) Chíp nhớ này có 4096 ngăn nhớ (212 = 4096) và mỗi ngăn nhớ chứa 4 bít dữ liệu 
nên tổ chức nhớ của nó là 4096 ´ 4 và thường được biểu diễn là 4K ´ 4. 
b) Dung lượng nhớ của chíp nhớ là 16K vì có 4 K ngăn nhớ và mỗi ngăn nhớ có 4 
bít dữ liệu. 
Ví dụ 14.2: 
 Một chíp nhớ 512k có 8 chân dữ liệu. Hãy tìm a) tổ chức của nó và b) số chân 
địa chỉ của chíp này. 
Lời giải: 
a) Một chíp có 8 chân dữ liệu có nghĩa là mỗi ngăn nhớ có 8 bít dữ liệu. Số ngăn 
nhớ trên chíp này bằng dung lượng nhớ chia cho số chân dữ liệu = 512k/8 = 64. 
Do vậy tổ chức nhớ của chíp là 64k ´ 8. 
b) Số đường địa chỉ của chíp sẽ là 16 vì 116 = 64k. 
14.1.4 Bộ nhớ ROM. 
 Bộ nhớ ROM là bộ nhớ chỉ đọc (Read - only Memory). Đây là một kiểu bộ 
nhớ mà không mất các nội dung của nó khi tắt nguồn. Với lý do này mà bộ nhớ 
ROM còn được gọi là bộ nhớ không bay hơi, có nhiều loại bộ nhớ ROM khác nhau 
như: PROM, EPROM, EEPROM, EPROM nhanh (flash) và ROM che. 
14.1.4.1 Bộ nhớ PROM. 
 Bộ nhớ PROM là bộ nhớ ROM có thể lập trình được. Đây là loại bộ nhớ mà 
người dùng có thể đốt ghi thông tin vào. hay nói cách khác, PROM là bộ nhớ người 
dùng có thể lập trình được. Đối với mỗi bít của PROM có một cầu chì. Bộ nhớ 
PROM được lập trình bằng cách làm đứt những cầu trì. Nếu thông tin được đốt vào 
trong PROM mà sau thì phải bỏ vì các cầu trì của nó bên trong bị đứt vĩnh viễn với 
lý do này mà PROM mà được gọi là bộ nhớ ROM lập trình một lần. Việc lập trình 
ROM cũng được gọi là đốt ROM và nó đòi hỏi phải có một thiết bị đặc biệt gọi là bộ 
đốt ROM hay còn gọi là thiết bị lập trình ROM. 
14.1.4.2 Bộ nhớ EPROM và UV - EPROM. 
 Bộ nhớ EPROM được phát minh ra để cho phép thực hiện thay đổi nội dung 
của PROM sau khi nó đã được đốt. Trong bộ nhớ EPROM ta có thể lập trình chíp 
nhớ và xoá nó hàng nghìn lần. Điều này là đặc biệt cần thiết trong quá trình phát 
triển mẫu thử của một dự án dựa trên bộ vi xử lý. Một EPR sử dụng rộng rãi được 
gọi là UV - EPROM (UV là chữ viết tắt của tia cực tím Ultra - Violet). Vấn đề tồn 
tại duy nhất của UV - EPROM là thời gian xoá của nó quá lâu (20 phút). 
 Tất cả các chíp nhớ UV - EPROM có một cửa sổ được dùng để chiếu tia bức 
xạ cực tím xoá các nội dung của nó. Với lý do này mà EPROM cũng còn được coi 
như là bộ nhớ EPROM được xoá bằng tia cực tím hay đơn giản được gọi là UV – 
EPROM. Hình 14.1 trình bày các chân của một chíp UV - EPROM. 
 Để lập trình cho một UV - EPROM cần thực hiện các bước. 
1. Xoá các nội dung của nó, để xoá một chíp thì phải tháo nó ra khỏi để cắm trên 
bảng mạch hệ thống và đặt nó vào thiết bị xoá EPROM để chiếu xạ tia cực tím 
khoảng 15 - 20 phút. 
2. Lập trình cho chíp. Để lập trình cho một chíp UV - EPROM thì đặt nó vào thiết 
bị đốt (thiết bị lập trình ). Để đốt chương trình và dữ liệu vào EPROM thì thiết bị 
đốt ROM sử dụng điện áp 12.5V hoặc cao hơn phụ thuộc vào loại EPROM. Điện 
áp này được gọi là Vpp trong bảng dữ liệu của UV - EPROM. 
3. Lắp chíp nhớ trở lại để cắm trên hệ thống. 
Từ các bước trên đây ta thấy cũng như các thiết bị đốt EPROM thì cũng có 
các thiết bị xoá EPROM khác nhau. Và tất cả các kiểu bộ nhớ UV – EPROM đều có 
một nhược điểm chính là không thể được lập trình trực tiếp trên bảng mạch của hệ 
thống. Do vậy, bộ nhớ EPROM đã được ra đời để giải quyết vấn đề này. 
Hãy để ý đến các ký hiệu mã số của các IC trong bảng 14.2. ví dụ, mã số bộ 
phận 27128 - 25 dành cho UV - EPROM có dung lượn và thời gian truy cập là 
250ns. Dung lượng của chíp nhỏ được ký hiệu trên mã số bộ phận (part number) và 
thời gian truy cập được bỏ đi một số 0. Trong các mã số bộ phận thì chữ C là cộng 
nghệ CMOS, còn 27xx luôn chỉ các chíp nhớ EPROM. Để biết thêm chi tiết ta vào 
mục sổ tay các chíp nhớ của các hãng chẳng hạn JAMECO (jameco.com) hay JDR 
(jdr.com) theo đường mạng internet. 
Bảng 14.2: Một số chíp nhớ UV - EPROM. 
 HìNH 14.1 
Hình 14.1: Bố trí các chân của họ các chíp nhớ ROM 27xx. 
Ví dụ 14.3: 
 Đối với ROM có mã bộ phận là 27128 có dung lượng nhớ là 128k bít. Tra 
bảng ta thấy tổ chức của nó là 16k ´ 8 (tất cả mọi ROM đều có 8 chân dữ liệu) điều 
này nói lên rằng nó có 8 chân dữ liệu và số chân địa chỉ được tìm thấy là 14 vì 214 = 
16k. 
14.1.4.3 Bộ nhớ PROM có thể xoá được bằng điện EEPROM. 
 Bộ nhớ EEPROM có một số ưu điểm so với EPROM là do vì được xoá bằng 
điện nên quá trình xoá rất nhanh, nhanh rất nhiều so với thời gian xoá 20 phút của 
UEPROM. Ngoài ra trong EEPROM ta phải xoá toàn bộ nội dung của ROM. Tuy 
nhiên, ưu điểm chính của EEPROM là ta có thể lập trình và xoá khi chíp nhớ vẫn ở 
trên giá cắm của bảng mạch hệ thống mà không phải lấy ra như đối với UV – 
EPROM. Hay nói cách khác là EPROM không cần thiết bị lập trình và thiết bị xoá 
ngoài như đối với UV - EPROM. Để hoàn toàn tạo thuận lợi cho EPROM nhà thiết 
kế phải kết hợp vào bảng mạch của hệ thống cả mạch điện để lập trình EEPROM sử 
dụng điện áp Vpp = 5V nhưng chúng rất đắt. nhìn chung, giá thành cho 1 bít của 
EEPROM đắt hơn rất nhiều so với UV - EPROM. 
 Bảng 14.3: Một số chíp EEPROM và chíp nhớ Flash (nhanh). 
Cuối trang 160 

File đính kèm:

  • pdfVi_dieu_khien_8051_ Assembly_14_GhepNoiBoNhoNgoai.pdf