Gia tăng dân số cơ học và di cư ở thành phố Hà Nội: Xu hướng và những tác động kinh tế - xã hội

Tóm tắt. Gia tăng cơ học hiện đã chiếm hơn 2/5 nguồn gia tăng dân số của thành phố; ở

một số quận, huyện đã chiếm trên 7/10 trong gia tăng dân số chung. Trọng tâm không gian

của gia tăng dân số cơ học đã chuyển dịch dần ra phía ngoại thành do sự mở rộng địa bàn

đô thị hóa và phát triển các khu công nghiệp. Những xu hướng mới trong di cư nội tỉnh

liên quan mạnh mẽ với sự thay đổi cấu trúc không gian đô thị Hà Nội. Những xu hướng

mới trong nhập cư ngoại tỉnh liên quan đến những sự phát triển tăng tốc về đô thị hóa và

công nghiệp hóa. Di cư góp phần cải thiện cấu trúc tuổi - giới tính của dân số, thúc đẩy đô

thị hóa và công nghiệp hóa, nhất là ở phần phía tây và tây nam của thành phố, tăng cường

nguồn nhân lực và tài chính cho sự phát triển kinh tế - xã hội, nhưng cũng làm nóng thêm

các vấn đề trong quản lí đô thị

pdf12 trang | Chuyên mục: Văn Hóa Đô Thị | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 298 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Gia tăng dân số cơ học và di cư ở thành phố Hà Nội: Xu hướng và những tác động kinh tế - xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
g người làm dịch vụ và bán hàng). Một tỉ lệ không nhỏ là thợ thủ công, họ có thể làm việc
130
Gia tăng dân số cơ học và di cư ở thành phố Hà Nội: xu hướng và những tác động...
Hình 4. Địa bàn thu hút mạnh người nhập cư ở Hà Nội, 1994-1999
cho các làng nghề hay các xưởng nhỏ của khu vực kinh tế không chính thức.
Một tỉ lệ cao người nhập cư ngoại tỉnh là thợ lắp máy hay vận hành máy móc thiết bị, những
người lao động trực tiếp trong các khu công nghiệp. Ngay cả những người lao động phổ thông
cũng đóng góp phần không nhỏ vào thị trường lao động ở Hà Nội. Họ là những người lao động
khỏe mạnh từ vùng nông thôn di cư vào Hà Nội, chủ yếu là làm việc theo mùa vụ, làm nhiều công
việc nặng nhọc với tiền công thấp cho các công trình xây dựng dân dụng. Có thể nói không quá
rằng không thể hình dung tốc độ xây dựng dân dụng ở Hà Nội như hiện nay mà không có công sức
đóng góp của người nhập cư (Trong Bảng 7 không thống kê những người lao động mùa vụ).
Bảng 7. Cơ cấu nghề nghiệp của lao động phân theo tình trạng di cư ở Hà Nội, 1/4/2009
Không
di cư
Di cư
trong
huyện
Di cư
trong
tỉnh
Nhập cư
ngoại
tỉnh
Tổng
số
Nhà lãnh đạo các ngành, các cấp, các đơn vị 1,4 2,5 3,6 1,0 1,5
Nhà chuyên môn bậc cao 11,4 27,9 43,5 18,2 13,6
Nhà chuyên môn bậc trung 4,1 7,8 8,2 7,4 4,6
Nhân viên trợ lí văn phòng 2,0 3,6 4,3 4,0 2,3
Nhân viên dịch vụ và bán hàng 15,8 18,0 17,1 20,2 16,1
Lao động có kĩ năng trong nông, lâm, ngư nghiệp 0,7 0,3 0,1 0,1 0,7
Lao động thủ công và các nghề nghiệp liên quan 17,4 12,7 8,9 15,1 16,8
Thợ lắp máy và vận hành máy móc thiết bị 6,7 8,2 8,3 20,4 7,6
Lao động giản đơn 40,3 19,1 5,9 13,7 36,8
Tổng số 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0
(Xử lí từ dữ liệu vi mô mẫu 15% Tổng điều tra dân số và nhà ở 2009, TP Hà Nội)
Trong luồng di cư giữa các quận, huyện, tỉ trọng của những nhà chuyên môn bậc cao rất nổi
trội (43,5%). Điều này phản ánh tính linh động rất cao của nhóm lao động này cũng như sự phân
bố lại lao động trong phạm vi Hà Nội do những thay đổi của thị trường lao động.
131
Đỗ Thị Minh Đức
Hình 5. Địa bàn thu hút mạnh người nhập cư ở Hà Nội thời kì 2004-2009
Một tỉ lệ nhất định người di cư vào Hà Nội là các nhà đầu tư. Họ không chỉ mang đến thành
phố sức sáng tạo, mà cả nguồn vốn và công nghệ.
Cùng với việc di chuyển lao động có chuyên môn kĩ thuật, là sự di chuyển của vốn xã hội.
Vốn xã hội của đô thị được giàu lên nhiều. Đặc biệt, những khu đô thị mới, những khu chung cư
cao cấp,. . . là “những dị thường” giàu có về vốn xã hội, là những dấu ấn trong cấu trúc không gian
sinh thái nhân văn của đô thị Hà Nội.
2.3.4. Làm phong phú thêm bản sắc văn hóa của Thủ đô và thúc đẩy sự tiếp biến văn hóa
Một đặc điểm của di cư vào đô thị cho đến tận thời gian hiện nay là luồng di cư từ nông
thôn chiếm hơn 50%, đó là chưa kể di cư tạm thời, theo mùa vụ từ nông thôn vào đô thị. Những
mối dây liên hệ về kinh tế - văn hóa của người nhập cư với quê hương bản quán, họ mang theo
vào đô thị, và người nhập cư lại thường cư trú tập trung vào những địa bàn nhất định, nhất là các
phường đang đô thị hóa mạnh. Như thế là sợi dây liên hệ nông thôn - thành thị về mặt văn hóa vẫn
tiếp tục. Một mặt, có những tập quán của người nhập cư không phù hợp với lối sống đô thị, cần
132
Gia tăng dân số cơ học và di cư ở thành phố Hà Nội: xu hướng và những tác động...
phải sửa đổi theo những chuẩn mực ứng xử của văn minh đô thị, nhưng mặt khác, có những ứng
xử nhân văn của cộng đồng làng xã mà cuộc sống đô thị ồn ào làm cho bị phai nhạt đi, nay nhờ có
người di cư mà những giá trị ấy có thể được tái sinh. Điều ấy là tốt, chứ không có nghĩa là “nông
thôn hóa đô thị”. Những sự đa dạng về văn hóa ứng xử, văn hóa ẩm thực mà lớp lớp người di cư
đem đến Hà Thành, sau thời gian được chọn lọc, lắng lại và trở thành cái văn hóa vốn có của Hà
Thành.
Người di cư, nhất là người di cư tạm thời, vào đô thị để mong kiếm được thu nhập cao hơn,
để có tiền tiết kiệm gửi về gia đình. Trong quá trình mưu sinh ấy, họ cũng học tập những cái hay,
cái khác lạ của đô thị và mang về quê. Một trong những điểu dễ thấy là ở nông thôn bây giờ, nhiều
nơi người ta xây nhà ống, nhà tầng như ở đô thị, mặc dù về hoạt động kinh tế và sự tiện lợi, không
có gì nổi trội so với nhà ngói năm gian, đất ở cũng không phải là eo hẹp. Một số sinh hoạt của đô
thị cũng được đưa về nông thôn, trong đó có việc người di cư mở các dịch vụ này sau khi tích được
ít vốn liếng do làm việc ở đô thị.
Không gian văn hóa của Hà Nội là không gian rất mở. Người di cư tiếp tục mang vào đô thị
các sắc thái mới, và họ cũng mang về quê hương bản quán những nét văn hóa mới của đô thị.
2.3.5. Di cư đặt ra những vấn đề trong quy hoạch và quản lí đô thị
Những định hướng về đô thị hóa, về phát triển không gian đô thị được phê duyệt trong
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, trong quy hoạch xây dựng của thành phố các thời kì. Trong
mấy thập kỉ qua, do đô thị hóa, nhiều không gian nông thôn đã chuyển hóa thành đô thị, xã lên
phường. Ngay trong thời kì quá độ thành phường, nhiều thách thức đã đặt ra, khi mà cơ chế quản
lí tháng trước còn theo mô hình nông thôn, tháng sau đã theo mô hình đô thị. Nâng cao năng lực
quản lí cho chính quyền địa phương ở đây là vấn đề lớn. Những xã, phường ấy lại là địa bàn đô thị
hóa “nóng”. Các khu chung cư, đô thị mới được xây dựng ở đây. Người nhập cư cũng tập trung về
đây. Các khu đô thị mới, các khu chung cư có nhằm đến nhóm khách hàng quan trọng bậc nhất là
những người nhập cư - chủ yếu là nhập cư ngoại tỉnh và nhập cư liên huyện. Vì thế, sự cộng hưởng
của việc thúc đẩy đô thị hóa, trong đó có việc phát triển các dự án bất động sản và các luồng di
cư có thể tạo ra sức ép rất lớn lên những không gian đô thị hóa nóng hay quá nóng. Những tuyến
đường vành đai được mở rộng, tăng khả năng lưu thông, nhưng cũng dọc theo các tuyến vành đai
này có hàng loạt khu đô thị và chung cư cao tầng. Nếu tiếp tục phát triển những chung cư cao
tầng dọc các đường vành đai (hoặc các tuyến đấu nối vào đường vành đai) thì tình trạng tắc đường
thường xuyên vào giờ cao điểm trên các tuyến đường này, đặc biệt ở nơi giao cắt, là không tránh
khỏi.
Người nhập cư và cuộc sống của họ ở đô thị là một phần vốn có của thành phố lớn. Hà Nội
còn có một lượng lớn “khách vãng lai”, những người di cư tạm thời. Trong quy hoạch phát triển cơ
sở hạ tầng, đặc biệt là quy hoạch về cấp thoát nước, xử lí rác thải đô thị luôn phải tính đến nhân tố
này.
3. Kết luận
Trong suốt quá trình đô thị hóa ở Hà Nội, gia tăng cơ học có vai trò quan trọng. Với sức hấp
dẫn của một siêu đô thị, gia tăng cơ học sẽ có quy mô lớn hơn và có thể là khó dự báo trong dài
hạn. Vì thế, cần đánh giá sát xu hướng này để điều chỉnh nhân tố dân số trong các quy hoạch phát
triển của thành phố.
Sự gia tăng dân số Hà Nội mấy năm gần đây có phần “nóng hơn”, đặc biệt là khu vực thành
thị. Vì vậy, cần tiếp tục nghiên cứu tác động của việc nới lỏng chính sách dân số cũng như chính
133
Đỗ Thị Minh Đức
sách hộ khẩu tới các nhóm mục tiêu khác nhau. Việc quy hoạch phát triển vùng đô thị Hà Nội, đẩy
mạnh phát triển các đô thị vệ tinh để có thể giúp giảm sức ép nhập cư lên các quận thuộc đô thị
trung tâm.
Thành phố cần nghiên cứu các bộ lọc hữu hiệu đối với người nhập cư. Đồng thời có các
chính sách để người nhập cư hội nhập tốt hơn vào cuộc sống đô thị.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số Trung ương, 1991. Kết quả điều tra toàn diện, Tổng điều tra
dân số Việt Nam 1989. Hà Nội.
[2] Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương, 6-2010. Tổng điều tra dân số và nhà ở
Việt Nam năm 2009: Các kết quả chủ yếu. Hà Nội.
[3] Cục Thống kê TP Hà Nội, Niên giám thống kê Hà Nội các năm 2000, 2012, 2013.
[4] Đỗ Thị Minh Đức, 2004. Di cư vào các đô thị lớn ở nước ta trong thập kỉ 90 của thế kỉ XX.
Phân tích trường hợp của TP Hồ Chí Minh và Hà Nội. Tạp chí khoa học Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, số 2-2004, tr.126-132.
[5] Đỗ Thị Minh Đức, Nguyễn Viết Thịnh, 2001. Di cư giữa các tỉnh và các vùng ở Việt Nam.
Thông báo khoa học của các trường đại học. Địa lí /2001, tr.77-87.
[6] Đỗ Thị Minh Đức, Nguyễn Viết Thịnh, 2010. Di cư vào Hà Nội và những chính sách quản lí.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế "Phát triển bền vững Thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì
hòa bình", Hà Nội 7-9/10/2010. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.1025-1032.
[7] Tổng cục Thống kê, Điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình, các năm 2010,2011,
2012, 2013.
[8] Tổng cục Thống kê, Kết quả Tổng điều tra Dân số và nhà ở 1.4.1999, phiên bản CD-ROM.
[9] Tổng cục Thống kê, Dự báo dân số Việt Nam 2009 – 2049. Hà Nội, 2-2011
[10] Vụ thống kê dân số và lao động TCTK, Dữ liệu và kết quả mẫu 15%, Tổng điều tra dân số và
nhà ở năm 2009, CD-ROM, Hà Nội, 11-2010.
[11] Vụ thống kê dân số và lao động TCTK, Dữ liệu và kết quả toàn bộ, Tổng điều tra dân số và
nhà ở năm 2009, CD-ROM, Hà Nội, 11-2010.
ABSTRACT
Population mechanical growth and migration in Hanoi:
trends and impacts on the city’s socio-economic development
Population mechanical growth at present makes up two fifth of the total population increase
of the City. In some urban and peri-urban districts its shares is over 7/10 of the district’s total
increase. Centers of high mechanical growth are moving towards the peri-urban areas due to the
urbanized expansion and industrial park development. New trends in intra-provincial migration
are related closely to changes in Hanoi’s urban spatial structure. New trends in inter-provincial
migration are in close relation to the accelerated urbanization and industrialization in Hanoi. The
migration contributes to improving the age-sex structure of the city’s population, boosting the
urbanization and industrialization, especially in the western and south-western part of the City,
strengthening human and financial resources for the socio-economic development, however it
makes issues in urban management hotter.
Keywords:Mechanical growth, migration, socio-economic impact, Hanoi.
134

File đính kèm:

  • pdfgia_tang_dan_so_co_hoc_va_di_cu_o_thanh_pho_ha_noi_xu_huong.pdf