Đổi mới chính sách tín dụng xuất khẩu của nhà nước trong giai đoạn tái cơ cấu kinh tế hiện nay
Tóm tắt
Chính sách tín dụng xuất khẩu (TDXK) của Nhà nước là một bộ phận trong tổng
thể các chính sách kinh tế vĩ mô, được áp dụng nhằm hỗ trợ hoạt động xuất
khẩu các mặt hàng chiến lược mà Nhà nước khuyến khích. Trong từng giai
đoạn, tuỳ thuộc vào tình hình thực tế và mục tiêu phát triển kinh tế nói chung và
mục tiêu phát triển hoạt động xuất khẩu nói riêng, mà Nhà nước có những điều
chỉnh trong chính sách này nhằm đáp ứng tốt yêu cầu phục vụ nền kinh tế. Bài
viết này nhìn lại quá trình triển khai chính sách TDXK của Nhà nước ở Việt
Nam từ khi được ban hành đến nay và đề xuất những vấn đề cần đổi mới để phù
hợp với yêu cầu của quá trình tái cơ cấu nền kinh tế hiện nay.
cấp cho cơ quan này trong việc xử lý rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, để đảm bảo nguồn lực cho việc thực hiện giải pháp nói trên, thì chính sách dự phòng rủi ro TDXK cũng cần có những điều chỉnh phù hợp như phần sau của bài viết sẽ trình bày. Thứ sáu, trích lập dự phòng phù hợp với mức độ rủi ro và năng lực tài chính của cơ quan thực thi chính sách TDXK Dự phòng rủi ro là một cơ sở quan trọng nhằm đảm bảo khả năng tài chính của tổ chức cho vay trong việc thực hiện các biện pháp xử lý rủi ro, đặc biệt là xoá nợ. Yêu cầu của việc dự phòng rủi ro là phải phù hợp với tính chất của khoản nợ để có thể bù đắp được tổn thất của mỗi khoản nợ gây ra nhưng không làm tăng chi phí dự phòng một cách không cần thiết. Tuy nhiên, chính sách về dự phòng rủi ro trong cho vay vốn TDXK của Nhà nước từ trước đến nay chưa bao giờ đáp ứng được yêu cầu này, thể hiện ở việc quy định tỷ lệ dự phòng rất thấp so với dư nợ và không phân biệt các khoản nợ có mức độ rủi ro khác nhau8. Đây cũng chính là nguyên nhân làm cho việc xử lý rủi ro TDXK của Nhà nước thời gian qua gặp nhiều vướng mắc do không đủ nguồn lực để thực hiện biện pháp triệt để đối với các khoản nợ không có khả năng thu hồi. Mặt khác, do chi phí dự phòng rủi ro TDXK được lấy từ phí quản lý mà ngân sách nhà nước cấp hàng năm cho cơ quan thực thi chính sách TDXK nên việc sử dụng quỹ dự phòng rủi ro của cơ quan này để xoá nợ thường mất nhiều thời gian bởi đó thực chất là khoản chi tiêu ngân sách nhà nước, phải tuân thủ những quy định chặt chẽ về hồ sơ, thủ tục và thẩm quyền quyết định. Để giải quyết được vấn đề này, Chính phủ nên xem xét thay đổi chính sách dự phòng rủi ro TDXK của Nhà nước theo hướng: - Chuyển dần nguồn trích lập dự phòng rủi ro TDXK từ phí quản lý do ngân sách nhà nước cấp hiện nay sang lấy từ lãi cho vay, phí bảo lãnh và từ chênh lệch thu - chi của cơ quan thực thi chính sách TDXK. - Thực hiện việc phân biệt mức trích lập dự phòng rủi ro đối với mỗi khoản nợ phù hợp với kết quả phân loại nợ và kết quả đánh giá tài sản bảo đảm tiền vay của khoản nợ đó. - Nâng dần mức trích lập dự phòng rủi ro TDXK để tiệm cận với mức áp dụng cho các tổ chức tín dụng (bao gồm cả dự phòng chung và dự phòng cụ 8 Tỷ lệ trích dự phòng rủi ro TDXK của Nhà nước được áp dụng qua các thời kỳ như sau: - Theo Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg: trích 2% từ nguồn thu lãi cho vay hàng năm đối với cho vay các dự án đầu tư trung và dài hạn; trích 10% nợ quá hạn dưới 181 ngày, 20% nợ quá hạn từ 181 đến dưới 361 ngày, 30% nợ quá hạn từ 361 ngày trở lên đối với cho vay vốn ngắn hạn; trích 10% số tiền trả nợ thay chưa thu hồi được trong thời gian dưới 61 ngày, 20% số tiền trả nợ thay chưa thu hồi được trong thời gian từ 61 ngày đến dưới 181 ngày, 30% số tiền trả nợ thay chưa thu hồi được từ 181 ngày trở lên đối với bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất khẩu. - Theo Quyết định số 59/2005/QĐ-TTg: trích 0,2% dư nợ bình quân TDXK hàng năm. - Theo Quyết định số 44/2007/QĐ-TTg: trích 0,5% dư nợ bình quân TDXK hàng năm. 15 thể)9. Việc điều chỉnh chính sách dự phòng rủi ro như trên có ý nghĩa từng bước tăng cường nguồn lực tài chính để xử lý rủi ro TDXK mà không làm tăng gánh nặng cho ngân sách nhà nước, mặt khác tạo điều kiện để mở rộng thẩm quyền của cơ quan thực thi chính sách TDXK trong việc xử lý rủi ro bằng biện pháp xoá nợ nhằm đẩy nhanh tiến độ và phát huy tác dụng của biện pháp xử lý rủi ro này. Thứ bảy, thực hiện các giải pháp hỗ trợ từ Nhà nước nhằm đảm bảo nguồn vốn cho chính sách TDXK Một trong những điều kiện quan trọng quyết định sự thành công của chính sách TDXK của Nhà nước là sự đảm bảo về quy mô và tính ổn định của nguồn vốn với chi phí huy động hợp lý để đáp ứng các nhu cầu cấp tín dụng đa dạng về thời hạn. Tuy nhiên, thực tế hiện nay thì việc tạo lập nguồn vốn của cơ quan thực thi chính sách TDXK của Nhà nước vẫn còn nhiều khó khăn, nhất là trong việc huy động các nguồn vốn có chi phí thấp. Với các thay đổi về đối tượng và hình thức tài trợ tín dụng được đề xuất ở phần trên của bài viết, chắc chắn nhu cầu về vốn cho chính sách TDXK của Nhà nước thời gian tới sẽ tăng lên tương ứng với sự mở rộng về quy mô tài trợ vốn TDXK cho các doanh nghiệp. Cùng với đó, yêu cầu về việc giảm thiểu chi phí huy động vốn cũng được đặt ra cao hơn nhằm đáp ứng đòi hỏi về giảm lãi suất cho vay để khuyến khích doanh nghiệp cũng như đòi hỏi về tăng chênh lệch thu - chi của cơ quan thực thi chính sách TDXK để bổ sung quỹ dự phòng rủi ro. Để thoả mãn được yêu cầu đó, Nhà nước cần ưu tiên cho cơ quan thực thi chính sách TDXK huy động các nguồn vốn có lãi suất thấp dành cho hỗ trợ xuất khẩu (kể cả các nguồn vốn có thời hạn ngắn), đồng thời tạo điều kiện để cơ quan này phát hành trái phiếu và trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh có kỳ hạn đa dạng để phục vụ hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với các dự án đầu tư trong lĩnh vực xuất khẩu. Ngoài ra, trong trường hợp cơ quan thực thi chính sách TDXK tìm kiếm được các nguồn vốn có giá rẻ từ các tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế, Chính phủ cần tạo điều kiện thuận lợi để cơ quan này huy động vốn từ các tổ chức đó, đồng thời xem xét cấp bảo lãnh của Chính phủ khi bên cung ứng vốn có yêu cầu. 5. Một số vấn đề đặt ra đối với cơ quan thực thi chính sách TDXK Giống như bất kỳ một chính sách nào khác, những đề xuất đổi mới chính sách TDXK của Nhà nước được trình bày trong bài viết sẽ chỉ có thể phát huy tác dụng như mong muốn nếu được tổ chức triển khai bởi một chủ thể có năng 9 Theo quy định tại Thông tư số 02/2013/TT-NHNN, các tổ chức tín dụng phải trích dự phòng chung bằng 0,75% tổng số dư các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4, trích dự phòng cụ thể theo tỷ lệ lần lượt là 0%, 5%, 20%, 50%, 100% cho các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 5 tính trên phần chênh lệch giữa số dư nợ gốc của khoản nợ và giá trị khấu trừ của tài sản bảo đảm tương ứng. 16 lực đủ mạnh. Do đó, để đảm bảo nguồn vốn TDXK của Nhà nước có thể hỗ trợ tốt đối với hoạt động xuất khẩu của nền kinh tế, thì cơ quan thực thi chính sách này phải không ngừng đầu tư để nâng cao năng lực của mình về mọi mặt, mà trong đó quan trọng nhất là năng lực cung cấp các dịch vụ ngân hàng tiện ích và năng lực quản trị rủi ro. Bên cạnh các sản phẩm tín dụng theo quy định của Chính phủ, cơ quan thực thi chính sách TDXK của Nhà nước cần chú trọng đầu tư vào việc cung cấp các dịch vụ thanh toán (bao gồm cả thanh toán trong nước và thanh toán quốc tế). Việc làm này có tác dụng một mặt nâng cao tính tiện ích của nguồn vốn TDXK phù hợp với nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng của doanh nghiệp vay vốn, mặt khác hỗ trợ tích cực cho công tác quản trị rủi ro của cơ quan thực thi chính sách TDXK thông qua việc giám sát và quản lý dòng tiền của khách hàng. Ngoài ra, việc mở rộng cung ứng dịch vụ thanh toán cũng tạo điều kiện để cơ quan này tiết kiệm chi phí huy động vốn thông qua việc tận dụng nguồn vốn trong thanh toán của khách hàng, từ đó tạo cơ sở để giảm lãi suất cho vay. Cùng với đó, cơ quan thực thi chính sách TDXK của Nhà nước cũng cần chú trọng xây dựng và vận hành các chính sách, quy trình về quản trị rủi ro (bao gồm cả rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất và rủi ro thanh khoản) nhằm kiểm soát và duy trì ở mức thấp các rủi ro phát sinh trong quá trình huy động và sử dụng vốn, góp phần giảm thiểu chi phí, nâng cao chất lượng tín dụng và hiệu quả hoạt động. Nếu thực hiện thành công các giải pháp nói trên, thì năng lực của cơ quan thực thi chính sách TDXK sẽ được nâng cao một cách đáng kể. Điều đó không chỉ góp phần vào việc hoàn thành các mục tiêu đã đặt ra tại Chiến lược phát triển cơ quan này theo Quyết định phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ, mà còn là cơ sở vững chắc để chính sách TDXK của Nhà nước được triển khai một cách hiệu quả. Đây chính là điều kiện quan trọng để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu các mặt hàng mà Nhà nước khuyến khích theo đúng định hướng tái cơ cấu và chiến lược phát triển của các ngành kinh tế đã đề cập ở phần đầu của bài viết. _____________ Tài liệu tham khảo 1. Báo cáo tổng kết năm 2014, 2015 của NHPT. 2. Nghị định số 75/2011/NĐ-CP của Chính phủ về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước. 3. Nghị định số 151/2006/NĐ-CP của Chính phủ về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước. 4. Nghị định số 55/2015/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. 17 5. Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Quy chế tín dụng hỗ trợ xuất khẩu. 6. Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 19/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013-2020. 7. Quyết định số 369/QĐ-TTg ngày 28/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển NHPT đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. 8. Quyết định số 879/QĐ-TTg ngày 09/06/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035. 9. Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. 10. Quyết định số 2471/QĐ-TTg ngày 28/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2011-2020, định hướng đến năm 2030. 11. Quyết định số 1050/QĐ-NHNN ngày 28/5/2014 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về chương trình cho vay thí điểm phục vụ phát triển nông nghiệp theo Nghị quyết 14/NQ-CP ngày 05/3/2014 của Chính phủ. 12. Thông tư số 02/2013/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
File đính kèm:
- doi_moi_chinh_sach_tin_dung_xuat_khau_cua_nha_nuoc_trong_gia.pdf