Chính phủ kiến tạo trong xây dựng nông thôn mới ở Trung Quốc
Tóm tắt: Chính phủ kiến tạo địa phương ở Trung Quốc là mô hình thường được giới học giả Trung
Quốc và một số học giả trên thế giới lấy đó để lý giải cho cách điều hành nhà nước giúp cho sự
phát triển thần kỳ của nền kinh tế nước này kể từ khi thực hiện cải cách mở cửa năm 1978 đến nay.
Chính phủ kiến tạo địa phương cũng là mô hình đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình
Trung Quốc thực hiện chính sách xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa. Bài viết này phân tích
làm rõ những nội dung chính phủ kiến tạo địa phương Trung Quốc trong bối cảnh thực hiện chính
sách xây dựng nông thôn mới với mục đích đưa lại một số gợi mở cho Việt Nam.
em nhẹ sức mạnh của thị trường, tính tự chủ của xã hội. Hoặc, mặc dù Trung ương cũng đã nhiều lần nhấn mạnh chủ trương chuyển đổi sang mô hình chính phủ phục vụ, nhưng chính quyền địa phương vẫn chưa theo kịp, có những biểu hiện tiêu cực trong trưng thu đất đai, đầu tư trùng lặp, đầu tư không có chọn lọc vào các ngành công nghiệp, các hiện tượng như quan liêu, tham nhũng địa phương cao, chủ nghĩa bảo hộ địa phương khá thịnh hành, rủi ro tài chính nợ công của địa phương tăng cao [10, tr.64]. Ngoài ra, việc chú trọng xây dựng và vận hành chính phủ kiến tạo địa phương cũng có hệ luỵ của nó. Những năm cuối thế kỷ XX, tốc độ phát triển kinh tế cao của Trung Quốc mang đến những vấn đề xã hội nghiêm trọng, như: sự phát triển không hài hoà giữa các vùng miền, các tổ chức xã hội, vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái xuống cấp và mất cân bằng trong phát triển [6, tr.110]. Thứ năm, sự vận hành của chính phủ kiến tạo địa phương không thể tránh khỏi chuệch choạc, hạn chế. Trong nhiều trường hợp, chính phủ địa phương không thể bảo đảm được tính toàn bộ, tổng thể quốc gia, do đó, về nguyên tắc phải cần đến vai trò điều chỉnh, điều phối của Chính phủ Trung ương. Đây chính là cơ sở để nói rằng Chính phủ Trung Quốc là chính phủ kiến tạo trong một thể thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Trong thực tế, Chính phủ Trung ương đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc dẫn dắt xây dựng và vận hành của cả hệ thống chính quyền từ Trung ương đến địa phương, định hướng hoạt động của chính quyền. Nếu như trước đây nhiệm vụ của chính phủ kiến tạo là thúc đẩy phát triển kinh tế với chủ trương lấy tốc độ và hiệu quả phát triển kinh tế làm trọng tâm thì tình hình mới đặt ra yêu cầu phải có sự điều chỉnh mục tiêu phát triển đất nước hướng tới sự cân bằng giữa phát triển kinh tế thị trường và đảm bảo công bằng xã hội. Từ khi bước vào thế kỷ XXI, Trung Quốc bắt đầu tiến hành điều chỉnh mục tiêu phát triển chính sách công theo “quan điểm phát triển khoa học” lấy con người làm gốc, theo đuổi một nền chính trị hợp pháp lấy phát triển khoa học làm mục tiêu căn bản. Hội nghị toàn thể Trung ương 3 lần thứ XVI của Đảng Cộng sản Trung Quốc (tháng 10/2003) lần đầu tiên đã đề ra khái niệm mới “quan điểm phát triển khoa học”, trong đó ý nghĩa đầu tiên là phát triển, trọng tâm là lấy dân làm gốc, yêu cầu căn bản là phối hợp toàn diện và phát triển bền vững, phương pháp căn bản là quy hoạch tổng thể. Từ năm 2004, “quan điểm phát triển khoa học” và “xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa hài hoà” bắt đầu trở thành khẩu hiệu trong đời sống chính trị Trung Quốc, điều đó đã gợi ra và thúc đẩy sự chuyển đổi mô hình quản trị của Chính phủ Trung Quốc theo hướng xây dựng chính phủ kiến tạo khoa học và chính phủ phục vụ. Từ đó, mục tiêu quản trị của nhà nước là bảo đảm và cải thiện đời sống nhân dân là trục chính trong chính sách công của Trung Quốc, để nhân dân cùng được hưởng thụ thành quả phát triển cải cách, nâng cao chỉ số hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu quản trị nhà nước. Vũ Kiều Oanh 89 Hiện nay, khi một số chính phủ địa phương Trung Quốc có những biểu hiện rời xa quan niệm đúng về chính phủ kiến tạo, đi chệch nhu cầu phát triển thì việc chuyển đổi sang mô hình chính phủ kiến tạo - phục vụ chính là sự phản hồi đối với nhu cầu đó [10, tr.64]. Một số học giả Trung Quốc đã có đề xuất đáng quan tâm về giải pháp căn bản đối với quá trình chuyển đổi mô hình của chính phủ kiến tạo sang chính phủ kiến tạo - phục vụ: (1) Coi trọng vai trò của xã hội trong quản trị nhà nước. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, ý thức về quyền lợi của công dân cũng ngày càng cao. Sự phát triển của các tổ chức xã hội để phản ứng lại với những hành vi xâm phạm quyền lợi của chính phủ địa phương cấp huyện cho thấy sự trưởng thành của lực lượng xã hội. Những sai lầm của chính quyền khiến địa vị của nó ít nhiều bị giảm sút và chỉ chính phủ thôi thì không thể giải quyết được các vấn đề cụ thể của đời sống xã hội. Mặc dù, chính phủ địa phương vẫn là nhân tố cốt yếu không thể thiếu trong cơ chế vận hành và chuyển đổi, nhưng nó cần nâng cao sự tin cậy và hồi phục uy tín của mình trong xã hội [10, tr.64]; (2) Nhận thức rõ về chức năng của chính phủ. Trong quá trình chuyển đổi này, chính quyền cần nhận thức rõ hình thái phát triển và nhu cầu của thời đại; từ đó xác định rõ phương thức quản trị, nhiệm vụ chức năng của chính phủ, nâng cao độ minh bạch, chuyển giao bớt quyền cho thị trường, xã hội, thoái lui khỏi hoạt động kinh tế, gia tăng ý thức phục vụ. Bên cạnh đó, tăng cường phục vụ công cộng, bảo đảm xã hội, quan tâm đầu tư cho các lĩnh vực giáo dục, bảo vệ môi trường, làm tốt công tác điều tiết và bảo đảm xã hội cho nhân dân, loại bỏ chế độ hộ khẩu làm ảnh hưởng đến những phúc lợi xã hội của công dân [1, tr.38-39]; (3)Tổ chức lại bộ máy hành chính. Tái cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính cần thực hiện nguyên tắc phân quyền hợp lý, nguyên tắc hội nhập, nguyên tắc hành động mạnh mẽ và phân bổ ưu tiên các nguồn lực. Căn cứ vào các điều kiện khác nhau, áp dụng các cơ cấu tổ chức hành chính khác nhau. Chính quyền địa phương trong quá trình chuyển đổi sang mô hình chính phủ kiến tạo - phục vụ cần nâng cao năng lực và trình độ quản trị, bao gồm năng lực lãnh đạo, năng lực tích hợp tài chính, năng lực hợp tác, năng lực phản ứng và năng lực dịch vụ công, từ đó thúc đẩy sự phát triển bền vững của xã hội [10, tr.65]. Thứ sáu, Việt Nam là nước có thể chế chính trị và thể chế nhà nước xã hội chủ nghĩa tương đồng Trung Quốc. Theo xu hướng chung, có tính quy luật phổ quát, chúng ta sẽ phải xây dựng chính phủ kiến tạo phát triển để đáp ứng các yêu cầu phát triển có hiệu quả và bền vững kinh tế đất nước. Từ đầu nhiệm kỳ năm 2016 đến nay, Chính phủ của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nhiều lần nhấn mạnh thông điệp về xây dựng và vận hành “chính phủ kiến tạo”. Trong phiên chất vấn nghị trường ngày 18- 11-2017 tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá XIV, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng đã đưa ra những quan niệm của mình về chính phủ kiến tạo. Có thể nói, hiện nay Chính phủ Việt Nam đang hướng đến xây dựng một mô hình chính phủ kiến tạo. Xây dựng chính phủ kiến tạo không thể có mô hình cụ thể chung cho mọi quốc gia. Nhưng mỗi nước hoàn toàn có thể học hỏi kinh nghiệm xây dựng chính phủ đó từ nước khác. Do có nhiều điểm tương đồng nên trong quá trình xây dựng chính phủ kiến tạo - phát triển, Việt Nam có thể thận trọng và khách quan xem xét kinh nghiệm Khoa học xã hội Việt Nam, số 4 - 2019 90 của Trung Quốc trong xây dựng và vận hành chính phủ kiến tạo, trong đó có chính phủ kiến tạo địa phương. Chính phủ kiến tạo địa phương Trung Quốc đã hình thành và vận hành với các ưu điểm và hạn chế của nó. Đối với nước ta, với nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, vấn đề xây dựng và vận hành chính phủ kiến tạo rất có thể phải theo hướng các nước Đông Á khác, bắt đầu từ vai trò xây dựng của chính quyền Trung ương, bên cạnh việc chú trọng vai trò của chính quyền địa phương. Đó là vì tại thời điểm hiện nay, không phải mọi cán bộ lãnh đạo địa phương đều có tầm nhìn xa trong vấn đề chính phủ kiến tạo, chưa kể tâm lý cục bộ, các tiêu cực xảy ra ở địa phương, việc giám sát chính quyền địa phương chưa tốt Thực tế cũng cho thấy, phân quyền, phân cấp cho các cấp chính quyền địa phương là vấn đề còn đang có nhiều vướng mắc. Mặc dù các địa phương được quyền tự chủ rất lớn về quy hoạch phát triển, phân cấp đất, trong xây dựng hạ tầng trong tỉnh, phần lớn các dự án đầu tư công giao cho chính quyền địa phương quản lý, nhưng nguồn vốn ngân sách do Trung ương phân bổ nên về thực chất, dự án đầu tư công vẫn do Trung ương quyết định, vai trò quản lý của chính quyền địa phương còn mờ nhạt, chưa thể hiện tính chủ động quyết định và tự chịu trách nhiệm trên địa bàn mình quản lý [3]. Tài liệu tham khảo [1] Tống Duy Cường (2005), “Bàn về sự chuyển đổi mô hình chính phủ kiến tạo sang chính phủ phục vụ”, Tạp chí Lý luận Cam Túc, số 3. [2] Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [3] Nguyễn Hữu Hào (2016), “Chính quyền địa phương trong phân cấp quản lý nhà nước hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 11. [4] Uất Kiến Hưng, Cao Tường (2012), “Cơ sở và logic hành động của chính phủ kiến tạo địa phương”, Tạp chí Khoa học xã hội Trung Quốc, số 5. [5] Thiệu Đông Kha (2008), “Phân tích kinh tế chính trị học về vấn đề phát triển ngành sản xuất hoa quả ở huyện Đãng Sơn - Từ góc nhìn Chính phủ kiến tạo địa phương”, Báo Nông học An Huy, q.13, kỳ 14. [6] Lã Chí Khuê (2013), “Con đường chuyển đổi mô hình Chính phủ Trung Quốc từ khi cải cách mở cửa: Một mô hình tổng hợp”, Tạp chí Đại học Nhân dân Trung Quốc, số 3. [7] Hoàng Chí Lượng, Lưu Xương Dụng (2011), “Nghiên cứu về mô hình cải cách chế độ hộ khẩu Trùng Khánh”, Tạp chí Học viện Hành chính Trung Quốc, số 2. [8] Vũ Kiều Oanh (2018), “Xây dựng chính phủ kiến tạo ở Trung Quốc và gợi mở đối với Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 5. [9] Lý Hiểu Phi (2010) “Hộ khẩu và những cách biệt với xã hội hiện đại Trung Quốc: Dựa trên nghiên cứu định lượng các kết quả số liệu điều tra xã hội tổng hợp Trung Quốc”, Tạp chí Đại học Khoa học kỹ thuật Trung Hoa, số 3. [10] Trương Soái, Bành Thanh Bình (2014), “Bàn về năng lực quản trị Chính phủ kiến tạo cấp huyện trong bối cảnh thành thị hoá ở Trung Quốc”, Tạp chí Đại học nông nghiệp Thanh Đảo, q. 26, số 2. [11]ii 4-27233721.html. [12]ii PrintStory.aspx?distribution=21694& print = true [13]ii doi/trao-doi-binh-luan/ban-ve-tang-truong- kinh-te-cua-viet-nam-41695.html Vũ Kiều Oanh 91
File đính kèm:
- chinh_phu_kien_tao_trong_xay_dung_nong_thon_moi_o_trung_quoc.pdf