Cấu trúc Bảy bản Lễ nhạc Tài tử Nam Bộ

Tóm tắt

Trong bài bản nhạc cổ truyền Việt Nam, cụ thể là nhạc Tài tử Nam bộ, chúng ta thường bắt gặp những

thuật ngữ như Lớp, Câu, Lái, Mô, Chầu và Rao. Đây được xem là một trong những đặc trưng của nhạc

Tài tử, là khung sườn của bài bản nhạc Tài tử. Hiểu theo âm nhạc phương Tây, thì đó là những hình

thức, cấu trúc của các thể loại hay các tác phẩm. Như vậy, trong âm nhạc cổ truyền Việt Nam, cụ thể là

nhạc Tài tử Nam bộ cũng không ngoại lệ. Với bộ 7 bản Lễ trong 4 bộ Bắc, Lễ Nam, Oán (20 bản Tổ)

của nhạc Tài tử Nam bộ là một trong những minh chứng cho chúng ta thấy sự cân đối, khúc chiết trong

cấu trúc của một loại hình nghệ thuật đặc săc không chỉ của phương Nam mà là của dân tộc.

pdf8 trang | Chuyên mục: Các Loại Hình Nghệ Thuật | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 302 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Cấu trúc Bảy bản Lễ nhạc Tài tử Nam Bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
, câu 24 cũng trùng 
với câu 10. 
+ Chỉ có lớp I nghỉ 3 lái trước khi vào 
bản nhạc, còn các lớp khác thì không. Việc 
không nghỉ 3 lái trước khi vào mỗi lớp đã 
tạo cho người nghe một cảm xúc trọn vẹn 
từ đầu đến cuối bản nhạc, không bị chia cắt 
ở các lớp với nhau. Ngoài ra, cả bản nhạc 
không có sự xuất hiện của Chầu hay Mô. 
+ Thường sử dụng nhịp ngoại. 
+ Kết các lớp ở bậc I, II và V, nhịp nội 
Song Loan. 
Long Đăng 
Với tiết tấu vừa phải, tính chất âm 
nhạc khoan thai, đượm một ít sự u buồn, do 
đó, Long Đăng không thể hiện rõ nét trang 
nghiêm như thường thấy trong nhạc Lễ. 
Long Đăng được viết theo nhịp tư, lái 
tám, có 3 lớp và 40 câu. Mở đầu bằng chữ U 
và Kết bằng chữ Liu, nhịp nội Song Loan. 
+ Có 2 âm ngoại I và Phan. Âm I đôi 
lúc có giá trị như âm chính, làm cho điệu 
thức có sự chuyển tạm (ly điệu) sang Hò – 
I – Xang – Xê – Công – Liu. 
+ Lớp I có câu 3 và 4 trùng câu 9 và 
10. Tất cả các câu của lớp III (từ câu 29 
đến 40) trùng từ câu 5 đến câu 16 của lớp I. 
+ Chỉ có lớp I nghỉ 3 lái trước khi vào 
bản nhạc, còn các lớp khác thì không. 
Không thấy sự xuất hiện của Chầu hay Mô 
ở giữa bài. 
+ Thường sử dụng nhịp ngoại. 
+ 3 lớp đều kết ở âm bậc I, nhịp nội 
Song Loan. 
Long Ngâm 
Như Long Đăng, Long Ngâm cũng 
không thể hiện rõ tính trang nghiêm của 
nhạc Lễ mà lại nhẹ nhàng, khoan thai, 
mang nhiều chất tự sự. 
Long Ngâm được viết theo nhịp tư, lái 
tám, có 3 lớp và 33 câu. Mở đầu bằng chữ Xư 
và Kết bằng chữ Xang, nhịp nội Song Loan. 
+ Có 2 âm ngoại I và Phan. Âm I đôi 
lúc có giá trị là âm chính, làm cho điệu 
thức có sự chuyển tạm (ly điệu) sang Hò – 
I – Xang – Xê – Công – Liu. 
+ Lớp I có câu 6 và 7 trùng câu 2 và 3. 
+ Nghỉ 3 lái trước khi vào bản nhạc 
hay vào lớp I. Các lớp II và III khi vào đầu 
có thể nghỉ 3 lái nếu chúng được trình tấu 
độc lập nhưng nếu trình tấu một cách liên 
hoàn từ lớp này sang lớp kia thì 3 lái đó sẽ 
được chuyển thành chầu 2 lái, nghỉ 1 lái. 
Chữ kết của câu Chầu trùng với chữ kết 
CẤU TRÚC BẢY BẢN LỄ NHẠC TÀI TỬ NAM B 
22 
của câu trước đó. Trong khi hòa đàn, 
những câu Chầu có thể chuyển thành Mô. 
+ Thường sử dụng nhịp ngoại và nhịp 
ngoại Song Loan. 
+ Bài không có lớp nào kết ở âm bậc I 
mà kết ở những bậc II, V và VI. Các lớp 
đều kết ở nhịp nội Song Loan. 
Vạn Giá 
Tính chất âm nhạc trang nghiêm. Tuy 
Vạn Giá đã được “chuyển hóa” để mang 
cho mình phong cách Tài tử nhưng sự đỉnh 
đạc của nhạc Lễ vẫn còn thể hiện rất rõ. 
Vạn Giá được viết theo nhịp tư, lái tám, 
có 5 lớp và 47 câu Mở đầu bằng chữ Liu và 
Kết bằng chữ Liu, nhịp nội Song Loan. 
+ Có 2 âm ngoại I và Phan. Âm I đôi 
lúc có giá trị là âm chính, làm cho điệu 
thức có sự chuyển tạm (ly điệu) sang Hò – 
I – Xang – Xê – Công – Liu. 
+ Có một số câu trùng nhau như ở lớp 
III – các câu 20, 21, 22 trùng với các câu 
16, 17, 18. 
+ Nghỉ 3 lái trước khi vào bản nhạc hay 
vào lớp I. Các lớp khác khi vào đầu có thể 
nghỉ 3 lái nếu chúng được trình tấu độc lập 
nhưng nếu trình tấu một cách liên hoàn từ 
lớp này sang lớp kia thì 3 lái đó sẽ được 
chuyển thành Chầu 2 lái, nghỉ 1 lái. Chữ kết 
của câu Chầu trùng với chữ kết của câu trước 
đó. Trong khi hòa đàn, những câu Chầu có 
thể chuyển thành Mô. Đặc biệt là sự xuất 
hiện câu Chầu hay Mô rất sớm như Chầu ở 
câu thứ 2 của lớp III (câu 16), hoặc rất muộn 
như câu Kết của lớp V (câu 47). Việc Chầu ở 
câu 47 làm cho câu nhạc này có giá trị như 
câu Kết của lớp và của bản nhạc. 
+ Thường sử dụng nhịp ngoại và nhịp 
ngoại Song Loan. 
+ Kết lớp ở âm bậc I, V và VI, nhịp 
nội Song Loan. 
Tiểu Khúc 
Đây là bản nhạc có số câu ngắn nhất 
trong bộ bảy bản Lễ: 29 câu. Nhịp độ chậm 
rãi, tính chất trang nghiêm của nhạc Lễ 
được thể hiện rất rõ. 
Tiểu Khúc được viết theo nhịp tư, lái 
tám, có 4 lớp và 29 câu. Mở đầu bằng chữ U 
và Kết bằng chữ Liu, nhịp nội Song Loan. 
+ Có 2 âm ngoại I và Phan. 
+ Một số nhạc sĩ chia bản nhạc thành 4 
lớp nhưng số câu trong mỗi lớp khác nhau: 
lớp I – 10 câu, lớp II – 7 câu, lớp III – 8 
câu và lớp IV – 4 câu. Ngoài ra, chúng ta 
còn thấy một số nhạc sĩ chia bản nhạc chỉ 
còn 3 lớp: lớp I – 10 câu, lớp II – 7 câu và 
lớp III – 12 câu. 
+ Có một số câu trùng nhau như ở lớp 
III: các câu 20, 21, 22 trùng với các câu 16, 
17, 18. 
+ Các lớp đều được vào thẳng, không 
nghỉ 3 lái trước khi vào bản nhạc hay vào 
các lớp như thường thấy. Thêm nữa, cả bản 
nhạc chỉ có hai câu Chầu (hoặc Mô) nhưng 
lại xuất hiện liền nhau và rất sớm là câu 2 
và 3 của lớp I. Chữ kết của câu Chầu trùng 
với chữ kết của câu trước đó. Trong khi 
hòa đàn, những câu Chầu có thể chuyển 
thành Mô. 
+ Thường sử dụng nhịp ngoại và nhịp 
ngoại Song Loan. 
+ Cả ba lớp đều Kết ở âm bậc I, nhịp 
nội Song Loan. 
Tóm lại, trong cấu trúc của bảy bản 
Lễ, ta thấy có những điểm như sau: 
- Về thang âm: Hò – Xư – Xang – Xê – 
Công – Liu là thang âm chủ đạo. Tuy nhiên, 
với sự xuất hiện thường xuyên của hai âm 
ngoại là I và Phan đã làm cho hơi Lễ được 
thể hiện một cách rõ nét hơn. Khác với âm 
ngoại (Phan) trong bộ sáu bản Bắc có giá trị 
như âm lướt, thường hay xuất hiện ở cuối 
các lớp, cuối bản nhạc, âm chữ I trong bảy 
bản Lễ đôi lúc trở thành âm chính của câu 
nhạc, tạo nên sự chuyển đổi điệu thức tạm 
BÙI THIÊN HOÀNG QUÂN 
23 
thời (hình thức ly điệu trong âm nhạc 
phương Tây) sang Hò – I – Xang – Xê – 
Công. Ngoài ra, đã có sự luân chuyển Thang 
âm – Điệu thức – Hơi: Bản Xàng Xê, lớp 
Xề, từ Hò – Xư – Xang – Xê – Công chuyển 
sang Hò – I – Xang – Xê – Phan. Hai thang 
âm này được kết nối xen lẫn nhau, đã tạo 
cảm giác mới lạ cho người nghe. 
- Về tính chất: Tuy một vài bản nhạc có 
tiết tấu chậm rãi, tạo nên một phong cách 
thư thái, nhàn hạ, đôi lúc có nét u buồn 
nhưng sự trang nghiêm vẫn là tính chất chủ 
đạo trong âm nhạc của bảy bản Lễ. 
- Về Lớp: các lớp có độ dài, ngắn khác 
nhau nhưng không chênh lệch nhiều nên bố 
cục của các bản Lễ nhìn chung là cân đối. 
Riêng bản Vạn Giá có bố cục ít cân đối 
hơn do có lớp quá ngắn như lớp II chỉ có 6 
câu trong khi lớp IV lại có tới 14 câu. Đa 
số các bài bản có 4 lớp, một số chia thành 5 
lớp như Ngũ Đối Thượng, Ngũ Đối Hạ; 
Một số chia thành 3 lớp là Long Đăng, 
Long Ngâm. Cũng như các bản Bắc, việc 
phân lớp của bảy bản Lễ hiện nay vẫn chưa 
đi đến sự thống nhất trong giới nhạc Tài tử 
như bản Ngũ Đối Hạ, người chia năm lớp, 
người chia ba lớp hay bản Tiểu Khúc, 
người chia bốn lớp, người lại chia còn ba 
lớp. Số câu trong mỗi lớp cũng có sự sắp 
xếp, phân chia khác nhau như trong bản 
Ngũ Đối Thượng. Không có hiện tượng 
giống nguyên xi giữa các lớp với nhau 
trong cùng một bản thuộc bộ bảy bản Lễ; 
Ngũ Đối Thượng, Long Ngâm, Tiểu Khúc 
và Vạn Giá có tổng số câu bị lẻ còn các 
bản khác đều chẵn. 
- Về Câu: thông thường ở các bản Bắc, 
câu nhạc được kết thúc ở các câu chẵn và 
sau đó sẽ Chầu hay Mô ở những câu lẻ 
nhưng trong bảy bản Lễ thì việc kết câu 
không thấy theo kết cấu như trên mà có thể 
kết thúc ở vị trí nào, câu nào tùy thích. Chữ 
vào đầu của các bản nhạc, các Lớp không 
quy định phải là âm nào của thang âm mà 
bất kỳ, tùy theo yêu cầu của bài bản. Chữ 
kết ở các Câu, các Lớp không quy định ở 
bậc nào trong thang âm nhưng chữ kết của 
các bản, hầu hết đều về chủ âm, ngoại trừ 
bản Long Ngâm kết ở chữ Xang (bậc IV). 
Kết lớp hay kết bài hầu hết đều ở phách 1 
(nhịp nội Song Loan), riêng lớp II (lớp Hò) 
bản Xàng Xê kết ở phách 3, nhịp thứ 4 
(nhịp ngoại Song Loan). Trong mỗi bản 
đều có một số câu trùng lặp với nhau. 
- Về Chầu, Mô: Việc Mô hay nghỉ 3 
lái trước khi vào bản nhạc đa số vẫn được 
tuân thủ, ngoại trừ Ngũ Đối Thượng và 
Tiểu Khúc. Đối với những bản nhạc có 
nghỉ 3 lái ở mỗi lớp, nếu được trình tấu độc 
lập, chúng sẽ nghỉ 3 lái nhưng nếu được 
trình tấu liên hoàn thì 3 lái đó sẽ được 
chuyển thành Chầu 2 lái, nghỉ 1 lái. Bảy 
bản Lễ có ít câu Chầu và Mô hơn sáu bản 
Bắc. Hầu hết các bản nhạc đều có Mô và 
Chầu ở giữa bài, chỉ riêng bản Ngũ Đối Hạ 
thì không. Các câu Chầu đều có chữ dứt 
trùng với chữ dứt của câu nhạc trước đó. 
Các câu Chầu hay Mô không diễn ra một 
cách đều đặn mà rất tùy thích, thường thì 
phải cách mấy câu mới có Chầu hay Mô, 
cũng có khi cách một câu đã có như ở các 
câu 15, 17, 19 ở lớp I bản Xàng Xê, lúc thì 
cứ câu 3 của mỗi lớp là có như trong bản 
Ngũ Đối Thượng. Đặc biệt cũng trong bản 
Ngũ Đối Thượng, ta thấy Chầu hay Mô 
xuất hiện ở hai câu liền nhau ở câu 7 và 
câu 8; Ta cũng thấy điều này ở câu 2 và 3 
của lớp I trong bản Tiểu Khúc. Ngoài ra, 
Chầu hay Mô đôi khi xuất hiện rất sớm khi 
mới câu 2 đã có (lớp I – Tiểu Khúc và lớp 
III –Vạn Giá) hoặc rất muộn như tới câu 47 
cũng là câu kết của bản Vạn Giá mới xuất 
hiện, những điều này rất ít gặp trong nhạc 
Tài tử, cụ thể là trong các bản thuộc các bộ 
CẤU TRÚC BẢY BẢN LỄ NHẠC TÀI TỬ NAM B 
24 
Bắc, Lễ và Nam. 
- Về nhịp: các bản nhạc Lễ hay sử 
dụng nhịp ngoại và nhịp ngoại Song Loan, 
có khi gần như liên tục. 
CẤU TRÚC BẢY BẢN LỄ 
BÙI THIÊN HOÀNG QUÂN 
25 
Chú thích: 
1. Trương Bỉnh Tòng (1992), Từ điệu đến hơi và 
quá trình hình thành bản Vọng Cổ, Viện 
nghiên cứu Cải lương, tr. 5. 
2. Tác giả, âm Xư nhấn mạnh hơn một chút 
thành âm I. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Hữu Ba (1970), Nhạc pháp quốc 
nhạc, Trường QGAN & Kịch nghệ Sài Gòn. 
2. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc 
Đường (1990), Văn hóa và cư dân đồng bằng 
sông Cửu Long, Nxb Khoa học xã hội. 
3. Nguyễn Thị Mỹ Liêm (2010), Nhạc khí trong 
“dàn đờn” Tài tử (Nam Bộ), ANVN số 13. 
4. Nguyễn Thụy Loan (1990), Lược sử âm nhạc 
Việt Nam, Nxb âm nhạc Hà Nội, Nhạc Viện 
Hà Nội. 
5. Đắc Nhẫn (1990), Văn hóa và cư dân đồng 
bằng sông Cửu Long, Nxb Khoa học xã hội. 
6. Lê Thương (1963), Nhạc lý quốc nhạc, Nxb 
Nhạc Thư. 
7. Trương Bình Tòng (1992), Từ điệu đến hơi và 
quá trình hình thành bản Vọng Cổ, Viện 
Nghiên cứu Cải lương. 
Ngày nhận bài: 08/01/2017 Biên tập xong: 15/02/2017 Duyệt đăng: 20/02/2017 

File đính kèm:

  • pdfcau_truc_bay_ban_le_nhac_tai_tu_nam_bo.pdf