Cần biết khi tự ráp máy tính

Khi tự ráp máy vi tính PC, bạn sẽ được lợi nhiều hơn là mua máy ráp sẵn. Nhưng nó cũng đòi

hỏi bạn nhiều thứ trong đó quan trọng nhất là lòng ham mê tìm hiểu vì nếu thiếu cá tính nầy bạn

sẽ mau bỏ cuộc khi gặp trục trăc (là chuyện thường xẩy ra).

Bài viết nầy có mục đích khuyến khích các bạn trẻ tự ráp máy hay tự nâng cấp máy bởi vì chỉ

có qua việc làm nầy các bạn mới học hỏi được nhiều về cấu trúc máy, cách hoạt động cũng như

cách xử lý khi có hư hỏng.

Tuy nhiên chúng tôi xin khuyên bạn nào không ham thích về kỹ thuật là đừng nên tự ráp máy

vì trong quá trình ráp máy có vô số vấn đề phức tạp xẩy ra chớ không đơn giản hễ ráp là chạy

đâu.

pdf13 trang | Chuyên mục: Kiến Trúc Máy Tính | Chia sẻ: dkS00TYs | Lượt xem: 1806 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt nội dung Cần biết khi tự ráp máy tính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
o tiếp 
IDE cũng được tính vào tổng số này.) 
Nếu muốn sử dụng trên bốn ổ đĩa trong một máy, bạn có thể mua card Ultra ATA gắn 
vào Slot PCI còn trống trên mainboard. Mỗi card Ultra ATA cho phép gắn thêm bốn ổ 
đĩa cứng và mainboard sẽ quản lý các ổ đĩa này tương tự các ổ đĩa SCSI. Chú ý: Bạn phải 
cài driver dành cho từng phiên bản Windows của nhà sản xuất cung cấp kèm theo card. 
Các quy ước khi lắp ráp, kết hợp ổ đĩa: 
- Dây cáp: Cáp tín hiệu của ổ đĩa cứng IDE/EIDE (40 dây) có ba đầu nối giống y nhau. 
Một đầu để gắn vào đầu nối EIDE trên mainboard, hai đầu còn lại để gắn vào đầu nối trên 
hai ổ đĩa cứng. Khi cắm dây, chú ý cắm sao cho vạch màu ở cạnh cáp nối với chân số 1 
của đầu nối. Thường chân số 1 được quy ước trên mainboard là cạnh có ghi số 1 hay có 
dấu chấm tròn, hoặc dấu tam giác. Trên ổ đĩa là cạnh có ghi số 1, hay cạnh nằm sát dây 
cắm nguồn. Có hãng sản xuất đã ngừa trường hợp cắm ngược cáp bằng cách bỏ bớt một 
chân ở đầu nối trên mainboard, và bít một lỗ tương ứng ở đầu nối trên cáp. Khi nối cáp, 
cố gắng xoay trở đầu cáp sao cho đoạn dây đi từ mainboard đến ổ đĩa cứng là ngắn nhất. 
Thậm chí, bạn có thể nối đầu giữa lên Mainboard, hai đầu bìa lên ổ đĩa cứng. Chú ý: Đối 
với cáp Ultra ATA (80 dây) ta phải cắm đúng quy định của nhà sản xuất (thường các đầu 
cắm phân biệt bằng màu sắc). 
Giữa hai nhóm ổ đĩa 1, 2 và 3, 4 phân biệt bởi hai dây cáp gắn vào hai đầu nối Pri (thứ 
nhất 1, 2) hay Sec (thứ nhì 3, 4). Giữa ổ đĩa 1, 2 hay 3, 4 phân biệt bằng cách set Jumper 
trên mỗi ổ đĩa là Master (1, 3) hay Slave (2, 4). 
- Trên ổ đĩa có các set sau: Master (single): Ổ đĩa chính duy nhất. Master (dual): Ổ đĩa 
chính nhưng có kết hợp với ổ khác. 
Slave: Ổ đĩa phụ. 
Cable Select: Xác lập master hay slave bằng vị trí đầu cáp. 
Có một số mainboard bắt buộc ổ đĩa khởi động phải được set là Master và được gắn vào 
cáp Pri (1). Có một số mainboard đời mới cho phép bạn vào BIOS xác lập khởi động 
bằng ổ đĩa nào cũng được hay tự động dò tìm ổ đĩa khởi động theo thứ tự do bạn quy 
định trong BIOS (ổ mềm, CD ROM, SCSI, ổ cứng C hay D, E, F...). Có trường hợp hai ổ 
đĩa không chịu chạy chung với nhau khi gắn cùng một cáp. Bạn phải sử dụng hai cáp cho 
hai ổ đĩa này. 
Sử dụng 
Để sử dụng được ổ đĩa cứng với hệ điều hành DOS/Win, bạn phải tiến hành các thủ tục 
sau: 
 Fdisk: Phân vùng đĩa. 
 Format: Định dạng đĩa. 
Trong trường hợp bạn mới ráp máy hay làm lại ổ đĩa, bạn phải khởi động bằng đĩa mềm 
rồi dùng chương trình chứa trên đĩa mềm tiến hành thao tác với ổ đĩa cứng. 
Cách làm đĩa mềm khởi động như sau: 
* Đưa đĩa mềm vào ổ đĩa A, đánh lịnh Format A: /S 
* Chép tối thiểu các file sau lên đĩa mềm: Fdisk, Format, Sys. Bạn có thể chép thêm NC, 
các chương trình chống Virus, các chương trình tiện ích...tuỳ theo nhu cầu và dung lượng 
đĩa mềm còn trống. 
FDISK 
Khi bạn đánh lệnh Fdisk, màn hình đầu tiên sẽ hỏi bạn có sử dụng FAT32 hay không 
(DOS 7 hỗ trợ FAT32) rồi đến màn hình có các mục dưới đây: 
1. Create DOS partition or Logical DOS Drive 
2. Set active partition 
3. Delete partition or Logical DOS Drive 
4. Display partition information 
5. Change current fixed disk drive 
Giải thích: 
* Create DOS partition or Logical DOS Drive: Tạo khu vực trên đĩa (có thể là một phần, 
có thể là toàn bộ) và tạo ổ đĩa Logic Dos. 
Trong mục nầy còn có các mục con: 
a. Create Primary DOS Partition 
b. Create Extended DOS Partition 
c. Create Logical DOS Drive(s) in the Extended DOS Partition 
* Đầu tiên, bạn phải tiến hành mục a tức là tạo Partition DOS thứ nhất. Vùng nầy có đặc 
điểm là chỉ chứa một ổ đĩa duy nhất có dung lượng chiếm toàn bộ không gian vùng và chỉ 
ổ đĩa nầy được phép khởi động. Nếu bạn không chia nhỏ ổ đĩa cứng vật lý thì bạn cho 
vùng nầy chiếm toàn bộ và quá trình fdisk kể như hoàn tất, Fdisk sẽ tự động chỉ định cho 
ổ đĩa nầy là ổ khởi động. Nếu bạn muốn chia nhỏ ổ đĩa, bạn chỉ định kích thước cụ thể 
cho vùng này rồi tiến hành mục b. 
* Mục b tạo vùng đĩa mở rộng dành cho DOS. Dung lượng là không gian còn lại của ổ 
đĩa vật lý hay chỉ một phần nếu bạn muốn dự trữ một vùng riêng ngoài tầm kiểm soát của 
DOS (dành cho hệ điều hành khác) gọi là vùng Non DOS. Vùng DOS mở rộng nầy sẽ 
chứa tất cả các ổ đĩa Logic mà bạn muốn tạo và bạn tiến hành tạo chúng bằng mục c. 
2. Set active partition: Chỉ định ổ đĩa được phép khởi động. Theo quy định của DOS, chỉ 
có ổ đĩa nằm trong Pri Partition mới được phép active (ổ đĩa C). Mục này chỉ dùng khi 
bạn không cho vùng Pri chiếm toàn bộ dung lượng ổ đĩa vật lý. 
3. Delete partition or Logical DOS Drive: Xoá bỏ những gì bạn tạo trong mục 1. Theo 
quy định của DOS, quá trình xóa phải ngược lại với quá trình tạo, nghĩa là cái gì tạo đầu 
tiên phải được xoá sau cùng và ngược lại. 
Trong mục nầy có các mục con: 
a. Delete Primary DOS Partition 
b. Delete Extended DOS Partition 
c. Delete Logical DOS Drive(s) in the Extended DOS Partition 
d. Delete Non-DOS Partition 
Trong mục nầy, bạn phải tiến hành ngược từ dưới lên trên tức là tiến hành theo thứ tự 
4,3,2,1. 
4. Display partition information: Hiển thị tình trạng hiện tại của ổ đĩa cứng. Mục này bạn 
nên chọn đầu tiên để tránh tình trạng thao tác lộn ổ đĩa. 
5. Change current fixed disk drive: Chọn ổ đĩa vật lý để thao tác. 
Chú ý: Khi bạn Fdisk trên ổ đĩa cứng nào (logic hay vật lý) toàn bộ dữ liệu trên ổ đĩa đó 
sẽ bị xoá. Fdisk chỉ dùng cho ổ đĩa cứng, bạn không thể Fdisk ổ đĩa mềm. 
[Đầu trang] 
FORMAT 
Format được dùng cho đĩa cứng lẫn đĩa mềm và gần như là chương trình thông dụng khi 
sử dụng máy tính. Nhưng Format có hai tính năng chưa được đánh giá đúng mức là 
format triệt để (/u): quá trình kiểm tra đĩa kỹ lưỡng nhất, và format /q (format nhanh): 
cách xoá đĩa có nhiều file nhanh nhất. 
Công dụng chính của Format /u là xóa mọi dữ liệu cũ, định dạng lại ổ đĩa giống như khi 
mới mua. Trong quá trình định dạng lại nó còn kiểm tra đánh dấu các vị trí xấu không sử 
dụng được. 
Công dụng của Format /q là không làm gì ảnh hưởng đến dữ liệu hiện có trong ổ cứng, nó 
chỉ làm một việc đơn giản là xoá các thông tin dùng để quản lý dữ liệu. Khi nào cần ghi 
dữ liệu mới thì dữ liệu cũ bị xoá đi. Do đó, nếu format /q, bạn vẫn có thể phục hồi dữ liệu 
lại được nếu chưa ghi dữ liệu mới đè lên. 
Ký tự cho ổ đĩa 
Trên máy có từ hai ổ cứng trở lên mà mỗi ổ cứng lại chia thành nhiều phân vùng 
(partition) thì việc đặt tên đĩa của DOS dễ làm bạn “rối” vì chúng được gán theo một thứ 
tự “kỳ cục”: DOS chỉ định ký tự ổ đĩa cho các phân vùng chính (pri) trước rồi mới đến 
các phân vùng mở rộng (ext). Thí dụ: Có ba ổ đĩa, mỗi ổ đĩa chia hai phân vùng thì tên 
của chúng được gán là C cho phân vùng pri của ổ 1, D cho phân vùng pri của ổ 2, E cho 
phân vùng pri của ổ 3, F cho phân vùng ext của ổ 1, G cho phân vùng ext của ổ 2, H cho 
phân vùng ext của ổ 3. Ðối với những người sử dụng máy tính ít kinh nghiệm, họ khó mà 
biết ký tự ổ đĩa được gán thuộc về ổ cứng nào (trừ ổ C). 
Bạn có thể tránh được rắc rối này bằng cách chỉ chia phân vùng ext cho các ổ cứng từ ổ 
thứ hai trở đi. Khi đó, DOS sẽ gán ký tự ổ đĩa theo đúng trật tự vật lý của chúng, nghĩa là 
lần lượt từ ổ thứ nhất đến ổ cuối cùng (vì chỉ có một phân vùng pri trên ổ 1). 
Biện pháp này có một nhược điểm là tất cả các ổ đĩa không có phân vùng pri sẽ không 
khởi động được và không thể dùng làm ổ C nếu mang sang các máy tính khác. 
Nếu đang sử dụng Windows 98 trên máy Pentium MMX trở lên, bạn có thể áp dụng cách 
đơn giản sau: Không khai báo ổ cứng thứ nhì trở đi trong BIOS. Khi vào Windows, hệ 
điều hành nầy tự phát hiện ra các ổ cứng đó và sẽ quản lý với các ký tự ổ đĩa được sắp 
xếp tiếp theo ổ cứng thứ nhất (thí dụ: C là phân vùng pri trên ổ 1; D là phân vùng ext trên 
ổ 1; E là phân vùng pri trên ổ 2; F là phân vùng ext trên ổ 2). 
Biện pháp này có nhược điểm là không sử dụng được ổ cứng thứ hai khi khởi động với 
DOS, nhưng có ưu điểm là bạn vẫn chia ổ đĩa như bình thường (có thể dùng làm ổ C để 
khởi động khi chạy trên máy khác). 
Nếu chạy Windows NT/2000/XP, bạn có thể vào Computer Manager/Disk Management 
và thay đổi ký tự ổ đĩa tuỳ ý. 
Format cấp thấp đĩa cứng (low level format) 
Thông thường, nhà sản xuất đã format cấp thấp cho ổ đĩa trước khi xuất xưởng, format 
cấp thấp đĩa cứng (low level format) sẽ ghi lại thông tin định dạng lên từng sector đĩa 
cứng về mặt vật lý phù hợp với trạng thái đầu từ ghi/đọc lúc đó và “loại bỏ” các sector hư 
hỏng (nếu có) khỏi danh sách quản lý của mạch điều khiển (tránh trường hợp ghi vào đây 
làm mất dữ liệu). Sau thời gian sử dụng, có thể có một số sector bị hư hỏng hay tình trạng 
đầu từ đọc/ghi bị thay đổi (do các chi tiết cơ khí bị mài mòn), chúng ta nên format cấp 
thấp lại để cập nhật “tình trạng vật lý” mới cho ổ đĩa. Ảnh hưởng của nó tương đương với 
một lần ghi dữ liệu và không hề làm giảm tốc độ hay tuổi thọ của ổ cứng, tuy nhiên 
chúng ta cần chú ý các vấn đề sau: 
- Format cấp thấp đĩa cứng sẽ phát hiện các sector hỏng và sẽ giấu chúng về mặt vật lý 
(mạch điều khiển ổ đĩa) để tất cả các chương trình (kể cả hệ điều hành) không bao giờ 
dùng được các sector này, do đó mỗi lần format cấp thấp lại, có thể dung lượng đĩa hữu 
dụng sẽ bị giảm (nếu có thêm sector hỏng mới). 
- Trong một số mainboard, BIOS có chức năng format cấp thấp và quá trình thực hiện 
việc format này rất chậm. 
- Có một số phần mềm chuyên dùng để format cấp thấp của các hãng sản xuất ổ cứng 
chạy rất nhanh và có thể sử dụng cho nhiều loại ổ khác nhau. Tuy nhiên, chức năng giấu 
sector hỏng không được hoàn hảo lắm (khi được, khi không...). 
- Quá trình format cấp thấp là một quá trình ghi đọc đĩa toàn diện và trên toàn bộ bề mặt 
vật lý của đĩa cho nên có thể nói đây cũng là một quá trình kiểm tra tình trạng hoạt động 
khá nặng nề đối với các ổ đĩa cũ (ổ nào quá “yếu” thì có thể “tắt thở” luôn do không chịu 
nổi thử thách). Do đó, không nên format ở mức Low Level nhiều lần, mà chỉ thực hiện 
khi thật cần thiết. 

File đính kèm:

  • pdfocung.pdf
Tài liệu liên quan