Bảo lãnh thanh toán tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Để mở rộng quy mô hoạt động, các doanh nghiệp ngày càng c cầu chiếm dụng vốn lớn hơn, họ tận dụng tất cả các nguồn vốn từ vốn chủ sở hữu, vốn vay, đến các khoản chiếm dụng từ người bán ó nhu
hoặc từ khoản tiền trả trước của người mua. Cũng vì lẽ đó mà nhu cầu sử dụng
dịch vụ ngân hàng để bảo đảm cho các giao dịch giao thương giữa các bên ngày
càng nhiều, bảo lãnh thanh toán (BLTT) cũng từ đó mà gia tăng và đi kèm theo
là sự gia tăng những rủi ro liên quan ở mức độ ngày càng phức tạp. Do vậy,
bài viết “Bảo lãnh thanh toán tại các NHTM VN” sẽ tập trung nghiên cứu thực
trạng trong hoạt động BLTT và những rủi ro trong BLTT tại các NHTM VN giai
đoạn 2010 - 2014, từ đó đưa ra các biện pháp nhằm đẩy mạnh hơn hoạt động
BLTT, giảm thiểu các rủi ro góp phần nâng cao chất lượng và phát triển hoạt
động bảo lãnh của các NHTMVN.
ng thư bảo lãnh vượt quá thẩm quyền: Đây cũng là một dạng lạm dụng quyền lực để hưỡng lợi của một số cán bộ ngân hàng, biết sai mà vẫn làm. Có thể kể đến trường hợp của Seabank khi họ từ chối chứng thư bảo lãnh có giá trị 150 tỷ đồng. Trong trường hợp này bản thân phó tổng giám đốc NHTM cổ phần Đông Nam Á (Seabank) đã ký chứng thư BLTT cho gốc và lãi của số tiền 150 tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp mà Tập đoàn Vina Megastar mua của Công ty tài chính cổ phần Vinaconex-Viettel. Như vậy, trên thực tế thì chứng thư BLTT đã phát hành nhưng Seabank vẫn từ chối với lý do Phó tổng giám đốc Seabank chỉ được ký bảo lãnh ở mức 30 tỷ đồng nhưng đã ký chứng thư 150 tỷ đồng vượt so với mức được quyền ký là 120 tỷ đồng. Rủi ro liên quan đến năng lực thẩm định tín dụng: Vốn dĩ BLTT là cam kết thanh toán thay cho khách hàng khi khách hàng không có khả năng trả nợ cho người bán; do vậy khi đồng ý bảo lãnh cũng có nghĩa là ngân hàng đã đồng ý cấp tín dụng cho khách hàng, vì thế việc thẩm định là khâu quan trọng PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 25 (35) - Tháng 11-12/2015 Nghiên Cứu & Trao Đổi 66 để đi đến kết luận có phát hành chứng thư bảo lãnh hay không. Rủi ro liên quan đến thẩm định tín dụng thường do hệ thống quản trị rủi ro tín dụng bảo lãnh nội bộ tại các ngân hàng còn kém, năng lực của nhân viên tín dụng cũng hạn chế và vì thế mà ngân hàng không thể lường trước được những rủi ro sẽ xảy ra trong một số trường hợp phát hành bảo lãnh. Sự kiện được nêu sau đây liên quan đến NHTM cổ phần Phương Tây (Western Bank). Western Bank đã phát hành thư BLTT, bảo lãnh cho ông Nguyễn Sơn và bên thụ hưởng là TNG. Ông Sơn mua cổ phần VDL của TNG. Thời hạn bảo lãnh là 365 ngày kể từ 29/01/2011 với số tiền là 90.778.180.031 VND, thư bảo lãnh này là không hủy ngang và không cần chứng minh. Trước ngày đến hạn thanh toán Western Bank, có công văn gửi cho TNG với nội dung là chậm thanh toán cho đến khi giải quyết các vướng mắc giữa TNG và ông Nguyễn Sơn. Trong tình huống này, cho dù lỗi do TNG hay do ông Sơn thì nó cũng nói lên rằng việc thẩm định tín dụng của Western Bank chưa được tốt, nhân viên thẩm định của Western Bank chưa hiểu hết được các sự kiện kiên quan và đối tượng được bảo lãnh; do vậy nên không dự báo được những bất trắc có thể xảy ra dẫn đấn sự tranh chấp giữa TNG với Ngân hàng. Tương tự như vậy là trường hợp của Ngân hàng TMCP Quân đội (MB). MB đã phát hành 2 bảo lãnh cho Tập đoàn công nghiệp Thiên Phú, đơn vị thụ hưởng là Công ty cổ phần (CTCP) Trường Phú trong giao dịch mua bán 60 tấn dây đồngvới tổng giá trị 26 tỷ đồng, nhưng khi doanh nghiệp thụ hưởng bảo lãnh yêu cầu thực hiện nghĩa vụ, MB đã từ chối. Nguyên nhân từ chối được MB giải thích là doanh nghiệp được hưởng bảo lãnh đã không chứng minh được vi phạm của đối tác và không bổ sung đầy đủ hồ sơ theo yêu cầu của MB. Tuy nhiên, có thể lời giải thích của MB là đúng thực tế nhưng rõ ràng không thể nói rằng MB đã rất thấu hiểu khách hàng trong giao dịch này. Cũng nói về năng lực thẩm định, ta có thể tham khảo một trường hợp khác cũng lại xảy ra tai Agribank chi nhánh Hồng Hà. Sự việc xảy ra vào tháng 6/2011 khi CTCP thiết bị công nghiệp và xây dựng (CTCP TBCNXD) đã ký 2 hợp đồng mua thép xây dựng với công ty TNHH Cao Trường Sơn với tổng giá trị của 2 hợp đồng mua bánlà 50,1 tỷ đồng, một hợp đồng ký ngày 20/6/2011 và hợp đồng thứ hai ký ngày 23/6/20110.Để đảm bảo cho việc thanh toán đúng hạn Agribank chi nhánh Hồng Hà cũng phát hành 02 bảo lãnh thanh toán có tổng trị giá 50,1 tỷ đồng cho CTCP TBCNXD. Đồng thời, Agribank chi nhánh Hồng Hà đã cam kết không hủy ngang bảo lãnh thanh toán này và sẽ thanh toán một lần số tiền nói trên cho công ty Cao Trường Sơn nếu bên mua hàng vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng đã ký kết. Tuy nhiên, đến thời hạn thanh toán cuối cùng của hợp đồng là ngày 23/9/2011, công ty Cao Trường Sơn vẫn không nhận được số tiền hơn 50 tỷ đồng. Đại diện của CTCP TBCNXD cho biết sau khi nhận đủ hàng, công ty này đã bán hết 2.830 tấn thép đã mua. Nhưng số tiền có được từ bán hàng, công ty này không dùng để trả cho người bán mà đem trả nợ cho chi nhánh Agribank Hồng Hà (vốn dĩ Công ty này trước đó vẫn đang nợ Agribank chi nhánh Hồng hà) và chi dùng cho các việc khác của công ty. CTCP TBCNXD thừa nhận, hiện công ty không có khả năng thanh toán số tiền 50,1 tỷ đồng và mong muốn chi nhánh Agribank Hồng Hà thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Nhận thấy phía CTCP TBCNXD không chịu trả tiền mua hàng, công ty Cao Trường Sơn đã có văn bản yêu cầu Agribank thực hiện đúng cam kết trong thư bảo lãnh và trả tiền cho công ty này. Về trường hợp này thì một câu hỏi về năng lực thẩm định lại được đặt ra. 3. Kết luận và gợi ý Khi tham gia vào hoạt động thương mại của các doanh nghiệp thông qua BLTT là ngân hàng đã chấp nhận rủi ro thay vì rủi ro thuộc về bên bán, dịch vụ này của ngân hàng đã góp phần quan trọng thúc đẩy các giao dịch kinh doanh thương mại; tuy nhiên điều đó đồng thời cũng tạo nên uy tín và khẳng định đẳng cấp của từng ngân hàng. Vì thế, cũng giống như các dịch vụ ngân hàng khác, BLTT khi đã ra đời rồi, đã chính thức được đưa vào hoạt động thì sự tồn tại và phát triển của nó cũng luôn gắn liền với uy tín và thương hiệu của mỗi ngân hàng. Từ những thực trạng và rủi ro trong hoạt động BLTT, tác giả xin được chia sẻ một vài suy nghĩ về việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh và việc hạn chế phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của ngân hàng để giúp cho các nhà quản trị có thêm được những nhận định sáng suốt hơn. Thứ nhất, nghiêm túc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh: Có hai lý do để ngân hàng cần phải thực Số 25 (35) - Tháng 11-12/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 67 Nghiên Cứu & Trao Đổi hiện nghiêm túc nghĩa vụ BLTT. Lý do thứ nhất là vì ngân hàng đã cam kết thì phải thực hiện. Một khi ngân hàng đã phát hành BLTT có nghĩa là ngân hàng đã cam kết trả tiển cho người bán khi người mua chứng minh được khả năng không trả nợ được của mình, cho dù ai đó của ngân hàng đã ký vượt thẩm quyền thì ngân hàng cũng không thể từ chối việc thực hiện nghĩa vụ của mình đối với người thụ hưởng. Đối với khách hàng thì họ chỉ biết rằng chứng thư bảo lãnh đã được ngân hàng phát hành, có chữ ký của người có thẩm quyền và chữ ký này đã được ngân hàng xác nhận bằng dấu mộc của ngân hàng, người ta không có quyền và cũng không thể làm một việc ngớ ngẩn là hỏi xem người đã ký là người có đủ thẩm quyền hay không. Do vậy, đối diện với khách hàng thì ngân hàng phải là người chịu trách nhiệm, việc ai đó của ngân hàng đã vi phạm thì đó cũng là lỗi của ngân hàng. Thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ của mình cũng đồng nghĩa với việc minh chứng cho khách hàng và những người quan tâm biết rằng ngân hàng tác giả là một ngân hàng luôn có uy tín, có trách nhiệm với những cam kết của mình và điều này góp phần nâng cao giá trị thương hiệu của ngân hàng, khách hàng đến với ngân hàng sẽ nhiều hơn thì doanh thu từ BLTT cũng theo đó tăng lên. Lý do thứ hai, khi thực hiện nghĩa vụ BLTT, chưa hẳn là đã rủi ro. Khi ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì thực ra cũng chỉ là ngân hàng bắt đầu cho khách hàng vay một khoản tiền bằng với giá trị bảo lãnh, nếu như trước khi chứng thư bảo lãnh được phát hành khâu thẩm định tín dụng đã được thực hiện nghiêm túc thì rủi ro của khoản vay này cũng vẫn là nằm trong khả năng giống như các khoản vay khác. Thứ hai, hạn chế đến mức thấp nhất việc phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh: Mặc dù khi phát hành BLTT là ngân hàng đã sẵn sàng cho việc có thể phải trả tiền thay cho người bán, và mặc dù khi thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì chưa hẳn ngân hàng đã gặp rủi ro như phân tích ở trên, tuy nhiên bản chất của nghiệp vụ bảo lãnh vẫn là sự cam kết thôi, hành vi cho vay vẫn đóng vai trò khắc phục sự cố trong bảo lãnh và không một ngân hàng nào khi phát hành chứng thư bảo lãnh lại muốn sự cố xảy ra. Vì thế cần phải ngăn ngừa để sự cố ngoài ý muốn không xảy ra, điều này chỉ khả thi khi ta nhận diện được những nhân tố có thể tác động thiếu tích cực đến hoạt động BLTT, mà trong đó những nhân tố liên quan đến nội bộ ngân hàng phải được xem xét trước hết. Không có gì khác hơn đó là những nhân tố về năng lực điều hành, năng lực dự báo, năng lực thực thi nghiệp vụ, năng lực về công nghệ và về phẩm chất đạo đức nghề nghiệp; tuy nhiên việc nhận diện cần phải được thực hiện một cách thường xuyên, cần phải làm mới thường xuyên để hạn chế mặt tiêu cực có thể xảy ral TÀI LIỆU THAM KHẢO Báo cáo của một số NHTM ebank/ngan-hang/ngan-hang-nha-nuoc- canh-bao-ve-chung-thu-bao-lanh-gia- 2708980.html toan-tin-dung-tai-agribank-nhieu-tinh- tiet-can-duoc-lam-sang-to/ hang-gay-thiet-hai-hang-tram-ti-dong- post371462.html mo/seabank-tu-choi-chung-thu-bao- lanh-150-ty-dong-2724338.html tin-cong-ty/lorem-ipsum-is-simply- dummy-text-of- the-print ing-and- typesetting-industry3-1.html mb-tu-choi-thanh-toan-bao-lanh-26-ty- dong-100881.html Nguyễn Ninh Kiều. (2009). Nghiệp vụ ngân hàng thương mại. NXB Thống kê, Nguyễn Thúy Vy. (2015). Giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động bảo lãnh thanh toán tại các NHTMVN, Luận văn cao học.
File đính kèm:
- bao_lanh_thanh_toan_tai_cac_ngan_hang_thuong_mai_viet_nam.pdf