Bài tập Đường lối cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam - Nguyễn Trọng Tuấn

1. Cương lĩnh chính trị đầu tiên

 Hoàn cảnh ra đời:

o Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng được thông qua trong hội nghị hợp nhất 3 tổ chức cộng sản ngày 06/01 – 07/02/1930 tại Cửu Long, Hương Cảng, Trung Quốc.

o Đến ngày 24-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hoàn thành việc hợp nhất 3 tổ chức cộng sản Việt Nam

o Các văn kiện được thông qua trong hội nghị thành lập ĐCSVN là: Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng. Các văn kiện đó hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản VN.

 Nội dung:

• Phương hướng chiến lược: “Tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới XH Cộng sản.”

 Cách mạng tư sản dân quyền là cách gọi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.

 Hai nhiệm vụ chính là: Đánh đế quốc (nhiệm vụ dân tộc) và đánh phong kiến (nhiệm vụ dân chủ).

 Giải quyết 2 mâu thuẫn: dân tộc với thực dân Pháp; nông dân với phong kiến.

• Nhiệm vụ:

 Chính trị: đánh đổ đế quốc và phong kiến làm cho VN hoàn toàn độc lập, lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông. Trong đó đặt vấn đề đánh đổ để quốc giành lại độc lập dân tộc lên hàng đầu.

 Kinh tế: thủ tiêu các thứ quốc trái, tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn của tư bản, đế quốc Pháp như công nghiệp, vận tải, ngân hàng giao cho Chính phủ công nông binh quản lý. Tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm của công, chia cho dân cày nghèo, xóa bỏ sưu thuế, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, thi hành luật ngày làm 8 giờ.

 Văn hóa – xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo công nông hóa.

 Lực lượng cách mạng:

o Thu phục đông đảo bộ phận dân cày và dựa vào dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng, đánh đổ bọn đại địa chủ và phong kiến.

o Phải làm cho các đoàn thể thợ thuyền dân cày (công hội – hợp tác xã) không nằm dưới quyền ảnh hưởng của tư bản quốc gia.

o Phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, tri thức, trung nông, thanh niên, Tân Việt để kéo họ về phía cách mạng.

o Đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng hoặc trung lập họ, bộ phận nào ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ.

 Lãnh đạo cách mạng: giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng VN, Đảng CSVN là đội tiên phong của giai cấp vô sản, phải thu phục được đại bộ phận giai cấp mình, lãnh đạo được dân chúng.

 Quan hệ quốc tế: CMVN là một bộ phận của CM thế giới, phải liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản trên thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.

 

docx18 trang | Chuyên mục: Lịch Sử Đảng | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 496 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Bài tập Đường lối cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam - Nguyễn Trọng Tuấn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
 Nam Tuyên truyền giải phóng quân được thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân.
Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc: Trong phạm vi mỗi nước ở Đông Dương, cụ thể là Việt Nam.
Nhận xét:
	Với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, BCH Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm giải quyết mục tiêu số một của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương đúng đắn để thực hiện mục tiêu ấy. Chính sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược đúng đắn và kịp thời này đã giúp cho cách mạng Việt Nam có đường lối đúng đắn, sát với thời cuộc, từ đó lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân.
2. Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”:
	Trong những năm đầu của thế chiến thứ 2, môi trường chính trị không thuận lợi, nhất là sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, chính quyền Pháp phát xít hóa chế độ cai trị Đông Dương. Nhưng từ mùa hè năm 1940, tình hình đã thay đổi: nước Pháp thua trận. Với tầm nhìn xa trông rộng về mối quan hệ giữa cuộc chiến tranh thế giới với phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ VIII nhận định: Nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước (ý nói cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất) đã đẻ ra Liên Xô-một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công. Hội nghị khẳng định: Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Mặc dù các cuộc nổi dậy cuối năm 1940, đầu năm 1941 không thành công nhưng Hội nghị Trung ương 8 đánh giá cao tinh thần các chiến sĩ cách mạng trong các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ và Đô Lương và phản đối mọi cuộc bạo động non khi thời cơ chưa chín muồi.
 Nhận định chính xác
Đánh giá chính xác xu thế phát triển của thời cuộc, tháng 10/1944, Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào toàn quốc, nêu rõ: “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!”.
Cũng vào thời điểm này (mùa thu năm 1944) Thường vụ Trung ương dự kiến cuộc xung đột Nhật-Pháp trước sau sẽ nổ ra. Tổng Bí thư Trường Chinh cho rằng sự “hòa hoãn” Nhật-Pháp “có khác gì một cái nhọt bọc, chứa đầy bên trong biết bao nhiêu vi trùng và máu mủ, chỉ chờ dịp chín mõm là vỡ tung ra”. Cuộc đảo chính Nhật-Pháp đêm 9/3/1945 đã chứng minh dự kiến đúng đắn của Đảng, chứng minh sự nhạy bén trong việc “bắt mạch” tình hình để kịp thời đề ra chủ trương thúc đẩy phong trào tiến tới.
Khi cuộc đảo chính của Nhật nổ ra vào đêm 9/3/1945, Đảng ta không bị động trước thời cuộc mà trái lại, chủ động vạch ra những nhiệm vụ chiến lược sát đúng để đưa cách mạng tiếp tục tiến lên. Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” đã ra đời vào ngày 12/3/1945. Bản Chỉ thị nhận định, cuộc đảo chính của Nhật ở Đông Dương đã tạo ra cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi, tuy vậy cũng đã tạo ra những tiền đề cần thiết thúc đẩy cuộc khởi nghĩa chóng tới. Trong Chỉ thị, Ban Chấp hành Trung ương, ngoài việc xác định kẻ thù mới và đề ra khẩu hiệu đấu tranh mới, còn dự báo hai khả năng làm xuất hiện thời cơ cho nhân dân ta vùng dậy giành chính quyền trên cả nước, đó là: 1. Quân Đồng minh vào Đông Dương đánh Nhật; và 2. Nhật đầu hàng Đồng minh.
Cũng chính vì dự kiến thời cơ thuận lợi đang đến gần mà Thường vụ Trung ương đã kịp thời triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, ra nghị quyết thành lập Ủy ban quân sự miền Bắc Đông Dương, thống nhất lực lượng vũ trang, mở trường đào tạo cán bộ, đẩy mạnh chiến tranh du kích phát triển rộng khắp, lập xưởng vũ khí, tích trữ lương thực, khẩn trương đón thời cơ tiến tới Tổng khởi nghĩa.
Hội nghị quân sự diễn ra đúng vào những ngày Hồng quân Liên Xô tiến công Berlin. Ngày 2/5, Berlin thất thủ; một tuần sau, phát xít Đức đầu hàng. Trong khi cuộc chiến tranh thế giới chuyển sang mặt trận phía Đông, Liên Xô tuyên chiến với Nhật, thì lãnh tụ Hồ Chí Minh và Tổng hành dinh của cách mạng Việt Nam chuyển từ căn cứ địa Cao-Bắc-Lạng về Tân Trào (Sơn Dương-Tuyên Quang). Tình hình thế giới đang chuyển biến hết sức mau lẹ cũng là lúc các nước lớn họp Hội nghị Potsdam (một thành phố Tây Nam thủ đô Berlin của Đức-họp từ 17/7 đến 2/8/1945). Hội nghị sớm để lộ âm mưu nham hiểm của các nước lớn về những vấn đề “hậu chiến” có quan hệ bất lợi đối với vận mệnh của dân tộc Việt Nam.
Đó cũng là thời điểm câu nói đã đi vào lịch sử của lãnh tụ Hồ Chí Minh nói với đồng chí Võ Nguyên Giáp (Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập) thể hiện sâu sắc tư duy nhạy bén trước tình hình, thể hiện nghệ thuật chớp thời cơ chiến lược và tinh thần tiến công cách mạng của Đảng. Ít ngày sau đó, khi nghe tin Nhật đầu hàng, việc lãnh tụ Hồ Chí Minh chỉ đạo khẩn trương tranh thủ thời gian tiến hành Hội nghị toàn quốc của Đảng và Quốc dân đại hội ở Tân Trào (để cán bộ kịp về chỉ đạo khởi nghĩa giành chính quyền ở các địa phương), càng cho thấy sự nhạy bén của lãnh đạo trong những giờ phút có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh dân tộc.
 Cơ hội đã đến
Đúng giữa trưa ngày 15/8/1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng các lực lượng Đồng minh trên sóng phát thanh của Nhật Bản. Như vậy, thời cơ xuất hiện như khả năng thứ hai mà Đảng ta đã dự báo. Tin đó đến với lãnh tụ Hồ Chí Minh rất sớm qua bản tin đài BBC mà Người nghe được ở lán Nà Lừa, Tân Trào (Tuyên Quang). Thời cơ có một không hai đã đến với dân tộc ta. Lập tức, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ra quân lệnh số 1, trong đó có đoạn viết: “Giờ tổng khởi nghĩa đã đến! Cơ hội có một cho quân, dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập của nước nhà! Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!... Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta!”. Tiếp đó, Hội nghị Đảng toàn quốc và Quốc dân Đại hội nhóm họp tại Tân Trào quyết định phát động cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên cả nước.
Thời cơ xuất hiện và tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định. Trong Cách mạng Tháng Tám, thời cơ tồn tại một cách khách quan trong vòng hai mươi hôm, bắt đầu từ khi Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng (ngày 15/8) và kết thúc khi quân Đồng minh vào tước khí giới quân Nhật trên đất nước ta theo Hiệp định Pô-xđam (ngày 5/9). Nó sẽ biến mất khi quân Đồng minh vào nước ta để giải giáp quân đội Nhật. Nếu phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc trước ngày 15/8 và sau ngày 5/9 đều không có khả năng thành công, bởi trước ngày 15/8, quân Nhật còn mạnh và sau ngày 5/9, trên đất nước có nhiều kẻ thù (từ vĩ tuyến 16 trở ra là quân Tưởng - Mỹ từ vĩ tuyến 16 trở vào là quân Anh và sau đó là quân Pháp trở lại xâm lược). Chỉ có thể giành chính quyền thắng lợi trong ngưỡng thời gian khắc nghiệt đó.
Cuộc Cách mạng Tháng Tám mà Đảng và Mặt trận Việt Minh phát động, như cơn sóng thần, đã cuốn phăng chính quyền phát-xít Nhật và tay sai. Ngày 30/8, vua Bảo Đại đọc chiếu thoái vị. Toàn dân tộc Việt Nam bắt tay xây dựng chế độ cộng hòa dân chủ bằng việc công bố trước quốc dân Việt Nam và nhân dân thế giới bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ngày 2/9/1945. Như vậy, mọi việc được chúng ta hoàn tất trước ba ngày để ngày 5/9/1945, với tư cách là chủ nhà, Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đón tiếp quân Đồng minh vào tước khí giới quân Nhật trên đất nước ta.
Nghệ thuật chớp thời cơ
Thực tế cho thấy, nghệ thuật nắm bắt tình hình và nghệ thuật chỉ đạo chớp thời cơ cách mạng của Đảng thể hiện trong hai bối cảnh khác nhau: khi nhận thấy điều kiện chưa chín muồi thì kiên quyết phản đối mọi chủ trương manh động để bảo toàn lực lượng cách mạng; nhưng khi phát hiện “tình thế trực tiếp cách mạng” đã xuất hiện thì kịp thời động viên quần chúng nhân dân quyết tâm vượt mọi khó khăn để đánh đòn quyết định, giành thắng lợi cho cách mạng.
Nét đặc sắc nhất của nghệ thuật đánh giá tình hình và chớp thời cơ của Đảng trong Cách mạng Tháng Tám là ở chỗ: 1-Cuộc Tổng khởi nghĩa không nổ ra trước ngày Nhật Bản đầu hàng-để quân đội Thiên hoàng không còn vị thế để can thiệp vào nội tình Việt Nam; 2-Cuộc Tổng khởi nghĩa cũng không nổ ra sau ngày quân Tưởng đã vào miền Bắc, buộc tướng lĩnh Quốc dân đảng Trung Hoa phải “nói chuyện” với Chính phủ lâm thời, đại diện cho nước Việt Nam đã có chủ sau khi Tổng khởi nghĩa thắng lợi.
Cùng với việc kiên trì xây dựng lực lượng và kịp thời phát huy sức mạnh của toàn dân theo phương châm “đem sức ta giải phóng cho ta” và khẩn trương, thận trọng chuẩn bị chu đáo, toàn diện, Trung ương Đảng luôn nhấn mạnh yếu tố nắm bắt thời cơ cách mạng. 
Trung ương Đảng đã thực hiện cả một quá trình kiên trì giáo dục giác ngộ và tổ chức quần chúng, dựa vào sức mạnh đoàn kết của toàn dân đã được giác ngộ để không ngừng chủ động chuẩn bị, nhằm tạo thế mới và lực mới cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thúc đẩy điều kiện chủ quan chín muồi, làm cơ sở để khi điều kiện khách quan thuận lợi xuất hiện thì kịp thời chớp thời cơ động viên toàn dân nổi dậy giành chính quyền trong cả nước. Điều đó giải thích vì sao chỉ trong vòng hai tuần (từ trung tuần đến cuối tháng 8/1945), Tổng khởi nghĩa nổ ra dồn dập và giành thắng lợi nhanh gọn từ địa phương này đến địa phương khác, từ thành thị đến nông thôn, trong cả nước. Nhờ có sự chuẩn bị lực lượng chu đáo, lại nổ ra đúng thời cơ, Cách mạng Tháng Tám đã giành được thắng lợi “nhanh, gọn, ít đổ máu”. Đó là một điển hình thành công về nghệ thuật tạo thời cơ, dự đoán thời cơ, nhận định chính xác thời cơ, đồng thời kiên quyết chớp thời cơ phát động toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

File đính kèm:

  • docxbai_tap_duong_loi_cach_mang_dang_cong_san_viet_nam_nguyen_tr.docx
  • docx1939-1945.docx
  • pdfBaoCaoDL.pdf
  • docxBC Baitap.docx
  • docxBia DL.docx
  • pdfBia DL.pdf
  • pdfCâu 2_Chuyển hướng chỉ đạo chiến lược gd 39-45 - Trang 1 - Wattpad.pdf
  • pdfCâu9.pdf
  • docxGiai đoạn 1930-1935.docx
Tài liệu liên quan