Áp dụng kế toán ABC trong quan trị chi phí cho các doanh nghiệp Việt Nam - Bài học từ các doanh nghiệp Mỹ
Từ lâu quản trị chi phí được biết đến là công cụ quản trị hữu hiệu nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Phương pháp kế toán chi phí dựa trên hoạt động ABC từ khi ra đời đã được rất nhiều nước trên thế giới áp dụng, đặc biệt là các nước phát triển như Mỹ, Úc và nó đã lan tỏa như một công cụ hữu ích trong việc
quản trị chi phí và tính giá thành của các doanh nghiệp. Tuy nhiên tại Việt Nam, ABC lại không phải là
một phương pháp kế toán chi phí phổ biến.Bài viết sẽ nghiên cứu việc áp dụng ABC thành công tại một số
doanh nghiệp điển hình tại Mỹ, từ đó rút ra các bài học cho các doanh nghiệp Việt Nam.
được aBC, thì toàn bộ quá trình kinh doanh phải được chia ra làm nhiều nhóm các hoạt động. Người ta thường vẽ ra lưu đồ của quá trình để xác định được những hoạt động chính này. Để có thể thiết lập được những hoạt động cần thiết cho aBC, những qui trình đồng nhất phải được nhóm lại với nhau. Hay nói cách khác, những hoạt động tác động lên sản phẩm và những hoạt động tác động lên khách hàng phải được tách ra để lập nên hai nhóm hoạt động riêng rẽ và đồng nhất. Ví dụ, tại các doanh nghiệp sản xuất, các hoạt động có thể là lập báo giá, giám sát sản xuất, giao nhận nguyên vật liệu... Bước ba, chi phí sẽ được phân cho những hoạt động vừa được xác định thông qua những tiêu thức phân bổ chi phí trong giai đoạn một. Khi những hoạt động chính đã được xác định, thì tổng chi phí của từng hoạt động cần phải được tính toán.Trước tiên, nhóm chi phí liên quan đến từng hoạt động phải được ghi nhận. Ví dụ, chi phí hoạt động cho việc “lập báo giá” bao gồm chi phí từ những nhóm khác nhau như lương, thuê mướn, tiện ích, và văn phòng phẩm. Để tính chính xác các chi phí này vào từng hoạt động, thì những tiêu thức phân bổ chi phí trong giai đoạn một, phải được ấn định cho từng nhóm chi phí. Ví dụ, chi phí thuê mướn liên quan đến hoạt động lập báo giá có thể được tác động bởi số mét vuông sử dụng, trong khi đó, chi phí lương có thể được tác động bởi thời gian mà người nhân viên sử dụng cho hoạt động này. Bước bốn sang giai đoạn hai, những tiêu thức phân bổ chi phí cho các hoạt động được xác định để phân bổ chi phí chung đến từng sản phẩm. Trong giai đoạn hai, các hoạt động được tính cho các sản phẩm bằng việc sử dụng tiêu thức phân bổ chi phí giai đoạn hai. Cũng như tiêu thức phân bổ chi phí của giai đoạn một, thông tin cần thiết cho tiêu thức phân bổ chi phí giai đoạn hai có thể không dễ dàng có sẵn để thể hiện các tỉ lệ tương ứng cho từng loại sản phẩm. Ví dụ, việc ấn định cước phí chuyên chở cho từng sản phẩm tương đối phức tạp. Khi thiếu dữ liệu thực tế, ước lượng gần KINH NGHIEÄM NÖÔÙC NGOAØI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN70 Số 111 - tháng 1/2017 đúng chi phí hoạt động sử dụng bởi từng sản phẩm là điều cần thiết. Quy trình phân bổ chi phí chung vào các đối tượng tính chi phí cụ thể như sau: Bước 1. Phân nhóm các chi phí; Bước này đòi hỏi việc phân chia các chi phí chung thành các nhóm chi phí có tính chất đồng nhất. Bước 2. Xác định những hoạt động chính; Phân chia hoạt động của doanh nghiệp ra thành các nhóm có liên quan đến việc sử dụng chi phí với mục đích cung cấp dịch vụ cho các sản phẩm. Bước 3. Liên hệ những chi phí vào các hoạt động bằng cách thiết lập ma trận EaD. Trong bước này, các hoạt động liên quan đến từng loại chi phí được xác định để thiết lập ma trận Chi phí-hoạt động (EaD). Nhóm chi phí biểu diễn theo cột, trong khi các hoạt động xác định trong bước 2 được biểu diễn theo hàng. Nếu hoạt động i có sử dụng loại chi phí j, đánh dấu vào ô ij. Bước 4. Thay thế những dấu đã đánh bằng hệ số tỉ lệ trong ma trận EaD. Những ô đã đánh dấu được thay thế bằng một tỉ lệ được ước lượng bằng cách sử dụng một trong các phương pháp đã đề cập trong phần trước.Tổng các cột của ma trận EaD phải bằng 1. Bước 5. Tính toán giá trị bằng tiền của các hoạt động. Để có được giá trị bằng tiền của từng hoạt động, chúng ta áp dụng công thức sau: TCa (i) = Chi phí (j) * EaD(i,j) (1) Với: TCa (i) = Tổng chi phí của hoạt động i M = Số loại chi phí Chi phí (j) = Giá trị bằng tiền của nhóm chi phí j EaD (i,j) = Hệ số tỉ lệ ở ô i, j của ma trận EaD Bước 6. Thể hiện mối quan hệ giữa các hoạt động và các sản phẩm trên ma trận aPD Trong bước này, các hoạt động được sử dụng cho từng sản phẩm được xác định và ma trận Hoạt động-sản phẩm (aPD) được lập. Những hoạt động được biểu diễn theo cột còn các sản phẩm được biểu diễn theo hàng. Nếu sản phẩm i sử dụng hoạt động j, ta đánh dấu vào ô i, j. Bước 7. Thay thế những dấu đã đánh bằng tỉ lệ trong ma trận aPD. Những ô đã đánh dấu được thay thế bằng một tỉ lệ được ước lượng bằng cách sử dụng một trong các phương pháp đã đề cập trong phần trước. Tổng các cột của ma trận aPD phải bằng 1. Bước 8. Tính toán giá trị bằng tiền của các sản phẩm. Để có được giá trị bằng tiền của từng hoạt động, chúng ta áp dụng công thức sau: OCP (i) = TCa (j) * aPD(i,j) (2) Với: OCP(i) = Chi phí chung của sản phẩm i N = Số hoạt động TCa (j) = Giá trị bằng tiền của hoạt động j aPD (i,j) = Tỉ lệ ở ô i, j của ma trận EaD Phương pháp trên có thể dễ dàng thực hiện bằng việc sử dụng các phần mềm bảng tính thông thường. Tuy vậy, mặc dù về cơ bản, mô hình ứng dụng aBC này có thể áp dụng chung cho nhiều doanh nghiệp tuy nhiên trong việc áp dụng thực tế phương pháp kế toán aBC tại các doanh nghiệp thì không có một quy trình chung nào có thể phù hợp cho mọi doanh nghiệp. Tùy theo điều kiện sản xuất thực tế tại công ty cũng như mục tiêu quản trị mà việc áp dụng phương pháp kế toán aBC cần có những điều chỉnh phù hợp. Bài học số 3: Cần xác định đối tượng chi phí một cách phù hợp Khi áp dụng aBC, việc lựa chọn đối tượng chi phí một cách phù hợp là vô cùng quan trọng. Thông thường các doanh nghiệp khi thực hiện phương pháp aBC thường lựa chọn đối tượng tính phí là các sản phẩm, dịch vụ để dễ dàng so sánh lợi ích của các sản phẩm dịch vụ mang lại cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh các mặt hàng gần giống nhau thì việc lựa chọn đối tượng chi phí là các sản phẩm sẽ chỉ tạo ra được sự khác biệt không nhiều trong chi phí. Điều này làm giảm hiệu quả của việc áp dụng aBC. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 71Số 111 - tháng 1/2017 Tại General Motors (GM) các đối tượng chi phí trong mô hình aBC là 5 công đoạn được tiến hành tại cơ sở phun sơn. Việc xác định những đối tượng chi phí này là những quá trình phụ sẽ mang lại lợi ích khi cung cấp thêm những thông tin hữu ích cho đội ngũ thiết kế của GM. Mỗi người trong đội thiết kế sẽ tập trung vào một trong những khu vực này, giúp họ hiểu được rõ hơn khu vực đó của hệ thống tiêu thụ hết bao nhiêu năng lượng, từ đó, giúp đội ngũ thiết kế cắt giảm năng lượng tiêu thụ. Trong khi đó, nếu đối tượng chi phí được xác định là các sản phẩm thì rất khó có thể xác định được sự khác biệt về chi phí nhằm nắm bắt được các thông tin hữu ích để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tóm lại, khi doanh nghiệp muốn áp dụng aBC phải luôn hướng tới mục tiêu quan trọng đó là khai thác được các thông tin hữu ích nhằm phục vụ cho nhiều mục đích quản trị khác nhau của doanh nghiệp. kết luận Phương pháp kế toán aBC đã được áp dụng thành công tại nhiều quốc gia trên thế giới, tuy nhiên tại Việt Nam phương pháp này còn khá mới mẻ với nhiều doanh nghiệp và với bản thân các nhà quản trị doanh nghiệp. Bài viết đã chỉ ra cách thức áp dụng phương pháp aBC tại một số doanh nghiệp cụ thể trên thế giới, đồng thời cũng đi sâu phân tích những lợi ích đạt được của phương pháp aBC so với phương pháp truyền thống. Ngoài ra, bài viết cũng nêu ra Việt Nam có những điều kiện nhất định để có thể áp dụng thành công phương pháp aBC như sau: Về con người: rất nhiều lãnh đạo sáng tạo, linh hoạt, sẵn sàng chấp nhận cái mới, áp dụng phương pháp tính giá mới để có thể nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty. Đội ngũ kế toán có năng lực, có chuyên môn vững vàng, có khả năng áp dụng những cải tiến khoa học mới. Đây là điều kiện tiên quyết để áp dụng aBC thành công. Về khoa học công nghệ: rất nhiều công ty tại Việt Nam có trình độ công nghệ phát triển tương đương các nước tiên tiến, đủ điều kiện để áp dụng phương pháp kế toán aBC. Mặt khác, bài viết cũng đưa ra nhiều bài học cụ thể nhằm hiện thực hóa việc áp dụng aBC tại các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, khi thực hiện bài viết này tác giả cũng gặp một số khó khăn nhất định như việc tìm tài liệu, việc tiếp cận với doanh nghiệp đã áp dụng aBC. Toàn bộ tài liệu tham khảo trong bài viết đều là tài liệu Tiếng anh, có những nội dung tương đối khó để hiểu sâu. Tác giả cũng hy vọng rằng trong tương lai khi có nhiều nhà khoa học nghiên cứu về aBC tại Việt Nam hơn, lúc đó khả năng trao đổi chia sẻ kinh nghiệm về lĩnh vực này sẽ được cập nhật và mở rộng hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Huỳnh Công Danh, 2012, Phương pháp tính giá trên cơ sở hoạt động trong doanh nghiệp sản xuất, Tạp chí Kế toán tháng 9/2012. 2. Huỳnh Lợi, 2007, Kế toán quản trị, NXB Thống kê. 3. Michael Janda,2014, Kinh tế Úc tiếp tục cải thiện. Tạp chí Kinh tế tháng 02 năm 2014. 4. Phạm Rin - Đại học Duy Tân, 21/11/2006, Kế toán chi phí dựa trên hoạt động (Activity - based Costing). Tạp chí Kế toán tháng 11/2006. 5. Trương Bá Thanh, 2008, Giáo trình Kế toán quản trị, NXB Giáo dục. 6. Abor, J. & Quartey, p. (2010), Issues in SME Development in Ghana And South Africa, International research Journal of Finance and Economics, 39 218-228. 7. Cooper & Kaplan, 2009, Activity-Based Costing, NXB Harvard Business School Press. 8. Ernst & Young, 2000, A Study to Develop a Costing Methodology for the Australian Higher Education Sector, Final Report to DETYA - Costing Methodology and Outcomes from the Trial Studies, 9. Fawzi Abdalla Abusalama, 1/1/2008, Barriers to Adopting Activity-based Costing Systems (ABC): an Empirical Investigation Using Cluster Analysis, Doctoral Thesis. Dublin Institute of Technology. 10. Kaplan R. S. and Atkinson (1998), Advanced managament Accounting, Prentice Hall, thirth edition. 11. Kip Krumwinede, CMA, CPA, Ph.D., and Augustin Suessmair, 2007, Comparing US and German cost accounting methods, Management Accounting Quarterly, Sring. Vol 8, No. 3. 12. K. Sartorius, C. Eitzen, P. Kamala, 2007, The design and implementation of Activity Based Costing (ABC): a South African survey, Meditari Accountancy Research, Vol. 15 Iss: 2, pp.1 – 21
File đính kèm:
- ap_dung_ke_toan_abc_trong_quan_tri_chi_phi_cho_cac_doanh_ngh.pdf