Ảnh hưởng của công nghệ tài chính đến an toàn hệ thống tài chính - Từ khung lý luận đến thực tiễn tại Việt Nam
Cùng với sự phát triển chung của công nghệ thông tin, các công ty công
nghệ đang đầu tư rất mạnh vào lĩnh vực tài chính, nhờ đó mà trên thị
trường các dịch vụ tài chính đã xuất hiện các công ty công nghệ tài chính.
Các công ty này hoạt động và cung cấp tất cả các dịch vụ của định chế tài
chính ngân hàng và định chế tài chính phi ngân hàng, đây là thách thức
lớn cho các nhà quản lý tài chính cũng như các định chế tài chính truyền
thống. Do công nghệ tài chính- FinTech- mới ra đời nên việc nghiên cứu
về tác động của nó chưa nhiều, chưa đầy đủ cả ở lí luận và thực tiễn, đây
chính là tính cấp thiết đặt ra việc cần có những nghiên cứu về khung đánh
giá tác động của FinTech đối với sự phát triển của các tổ chức định chế tài
chính, từ đó, có cách nhìn nhận, đánh giá thực tiễn đối với tính an toàn và
ổn định của hệ thống tài chính.
cảnh hoạt động nếu các chế tài kiểm soát TRẦN THỊ XUÂN ANH - NGUYỄN THỊ HOÀI LÊ 11Số 216- Tháng 5. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng không theo kịp tốc độ thay đổi của các hoạt động FinTech dẫn đến lỗ hổng về bảo mật thông tin khách hàng. Sự gia tăng các mối liên kết giữa các thành viên tham gia thị trường có thể mang lại lợi ích cho các ngân hàng và khách hàng, nhưng cũng có thể phóng đại rủi ro an ninh, làm tăng mức độ tổn thương cho hệ thống ngân hàng, đòi hỏi phải có thêm nhiều công cụ ngăn ngừa những vi phạm tiềm tàng. Rủi ro thanh khoản và chao đảo dòng vốn ngân hàng cũng có nguy cơ tăng lên vì sử dụng công nghệ mới tạo ra những cơ hội cho khách hàng tự động thay đổi các tài khoản tiết kiệm hay quỹ hỗ tương nhằm tăng thu lợi nhuận, điều này tác động đến mức độ trung thành của khách hàng và làm tăng bất ổn về tiền gửi, ảnh hưởng tiêu cực đến tính thanh khoản của ngân hàng. Chính vì những lý do trên, các định chế tài chính và cơ quan giám sát sẽ tập trung mối quan tâm vào việc quản lý rủi ro, các chuẩn mực kiểm tra và bảo vệ nhằm vào những kênh phân phối và dịch vụ mới mà các định chế tài chính sẽ đưa ra thông qua các giải pháp FinTech; nâng cao tính an toàn, lành mạnh và ổn định tài chính, tăng cường thực hiện các chương trình giám sát, buộc các ngân hàng có cơ cấu quản trị và quy trình quản lý rủi ro hiệu quả, đảm bảo cho việc xác định, quản lý và theo dõi những rủi ro phát sinh từ việc sử dụng FinTech liên quan đến việc áp dụng những mô hình kinh doanh cũng như quy trình và sản phẩm mới. (4) Ảnh hưởng đến ổn định của hệ thống tài chính Từ những phân tích nêu trên có thể thấy FinTech được kỳ vọng sẽ thành cánh tay nối dài của ngân hàng, hỗ trợ phổ cập tài chính, tạo ra sức mạnh cho thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh và góp phần phát triển kinh tế. Tuy nhiên, sự phát triển và áp dụng công nghệ vào lĩnh vực ngân hàng có thể gây rủi ro cho khách hàng và cả hệ thống ngân hàng. Các khách hàng có thể bị đe dọa về quyền riêng tư, an toàn của thông tin, gián đoạn dịch vụ ngân hàng, hay các cách thức tiếp thị không phù hợp. Ngành ngân hàng có thể bị đe dọa về lợi nhuận, gia tăng mức độ các nhóm rủi ro khác trong kinh doanh, không đáp ứng được hay vi phạm các yêu cầu của các cơ quan quản lý như bảo mật thông tin khách hàng, chống rửa tiền, tài trợ hoạt động khủng bố, kết quả sự ổn định của hệ thống tài chính sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực là điều khó tránh khỏi. 2. Thực tiễn tại Việt Nam FinTech chính thức xuất hiện tại Việt Nam năm 2008 bằng hoạt động thanh toán. Theo khảo sát của Viện Nghiên cứu phát triển Công nghệ ngân hàng Đại học Quốc gia TP HCM (VNUHCM-IBT, 2019), hiện có hơn 154 công ty hoạt động trong lĩnh vực FinTech tại Việt Nam. Trong đó, 37 công ty hoạt động trong mảng thanh toán, 25 công ty hoạt động trong lĩnh vực cho vay; 22 công ty làm về Blockchain, Crypto & Remittance. Có đến 70% công ty FinTech ở Việt Nam là các công ty khởi nghiệp có vốn đầu tư đến từ các quốc gia phát triển như Nhật Bản, Mỹ, Canada, Australia, Anh, Đan Mạch, Pháp và các quốc gia lân cận như Trung Quốc, Singapore, Malaysia. Không chỉ các startup, các tổ chức tài chính tại Việt Nam cũng tham gia làn sóng FinTech. Năm 2016, VPBank ra mắt ngân hàng số Timo, một mô hình quản lý tài chính cá nhân với tính năng tương tự ví điện tử thông thường, nhưng được hỗ trợ thêm khả năng rút tiền mặt và quẹt thẻ của ngân hàng truyền thống. Ảnh hưởng của công nghệ tài chính đến an toàn hệ thống tài chính- Từ khung lý luận đến thực tiễn tại Việt Nam 12 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 216- Tháng 5. 2020 Nhìn chung, FinTech ở Việt Nam hiện chủ yếu chỉ tập trung ở ba dịch vụ: thanh toán, cho vay ngang hàng và huy động vốn cộng đồng. Vì nhiều lý do khác nhau, ở tầm vi mô lẫn vĩ mô, các lĩnh vực khác như dịch vụ quản lý tài sản, quản lý thanh khoản, quản lý đầu tư, bảo hiểm, dịch vụ tư vấn tài chính tự động vẫn đang trong quá trình sơ khai. VNUHCM- IBT (2019) cho rằng các công ty FinTech ở Việt Nam có xu hướng sẽ tham gia chia sẻ thị phần bán lẻ tiềm năng của các ngân hàng truyền thống khi mà hoạt động cho vay ngang hàng, ví điện tử, thanh toán và trả góp bằng thẻ đã và đang thâm nhập mạnh mẽ vào cuộc sống hàng ngày. Sau đó, xu hướng ngân hàng số trở nên phổ cập với nhiều dịch vụ mở rộng. Nhìn về số lượng, các công ty Việt Nam có số lượng tham gia FinTech còn khá ít so với các nước. Về chất lượng, hoạt động của các công ty FinTech tại Việt Nam vẫn còn trong giai đoạn đầu, chưa đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ, phần lớn là hoạt động thanh toán; đang thiếu các dịch vụ quản lý tài sản, quản lý thanh khoản, quản lý danh tính, quản lý đầu tư, quản lý rủi ro, quản lý kinh doanh; bảo hiểm, bảo lãnh phát hành; dịch vụ tư vấn tài chính tự động. Hệ sinh thái FinTech tại Việt Nam chưa có sự kết nối chặt chẽ giữa các chủ thể bao gồm cơ quan quản lý, các định chế tài chính, công ty FinTech và các doanh nghiệp khởi nghiệp, quỹ đầu tư, hạ tầng tài chính, viễn thông,... Hoạt động kết nối để cung ứng sản phẩm dịch vụ cho người tiêu dùng chủ yếu là hợp tác giữa công ty FinTech và ngân hàng. Tuy nhiên, sự hợp tác này vẫn còn có hạn chế, mới chỉ đơn thuần là cung cấp các dịch vụ thanh toán giản đơn, chưa cung cấp các dịch vụ nâng cao khác cũng như tiếp Tài liệu tham khảo 1. Báo cáo của Ủy ban ổn định tài chính Mỹ (Financial Stability Board). (2018, June 27). Financial Stability Implications from Fintech. 2. BCBS (2018), Implications of fintech developments for banks and bank supervisors, truy cập https://www.bis.org/ bcbs/publ/d415.pdf 3. DTCC 2017, “Fintech and Financial stability – exploring how technological innovations could impact the safty & security of global markets”, truy caapj https://scholar.google.com.vn/scholar?q=FINTECH+AND+FINANCIAL+STA BILITY&hl=en&as_sdt=0&as_vis=1&oi=scholart 4. In Lee (2016), Fintech: Ecosystem and Business Models, org/ proceedings/vol142_2016/10.pdf 5. Kim, D.J., D.L. Ferrin, và H.R. Rao. (2008). “A trustbased consumer decision-making model in electronic commerce: The role of trust, perceived risk, and their antecedents”, Decision support systems. 44(2), 544-564. 6. Luo, X., H. Li, J. Zhang, và J.P. Shim. (2010). “Examining multi-dimensional trust and multifaceted risk in initial acceptance of emerging technologies: An empirical study of mobile banking services”, Decision support systems. 49(2), 222-234. 7. Nguyễn Trung Anh (2019), Hệ sinh thái Fintech tại Việt Nam, Tạp chí ngân hàng, truy cập tại http:// tapchinganhang.gov.vn/he-sinh-thai-fintech-tai-viet-nam.htm 8. SECO (2017 ), Chương trình đào tạo giám đốc NHTM Việt nam 2015 – 2017 9. VNUHCM_IBT (2019), Khảo sát về hoạt động Fintech tại Việt Nam, kết quả trình bày tại Hội thảo CNTT lần thứ 24, truy cập tại www.vietnamfintech.com.vn 10. SECO (O, 2017 ), Chương trình đào tạo giám đốc NHTM Việt Nam 2015 – 2017 11. VNUHCM_IBT (2019), Khảo sát về hoạt động Fintech tại Việt Nam, kết quả trình bày tại Hội thảo CNTT lần thứ 24, truy cập tại www.vietnamfintech.com.vn xem tiếp trang 20 Những điểm mới của Incoterms 2020 20 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 216- Tháng 5. 2020 bớt các nghĩa vụ so với Incoterms, vì thế, vẫn sẽ là một thực tế trong quá trình sử dụng Incoterms trong đàm phán và soạn thảo hợp đồng. Tuy nhiên, điều quan trọng là khi sử dụng biến thể của Incoterms, các bên cần thỏa thuận, thống nhất cách hiểu và quy định rõ ràng trong hợp đồng để tránh những tranh chấp không đáng có ■ Tài liệu tham khảo 1. Incoterms 2020 by the International Chamber of Commerce tại <https://iccwbo.org/resources-for-business/ incoterms-rules/incoterms-2020/> 2. Incoterms 2010 by the International Chamber of Commerce tại <https://iccwbo.org/resources-for-business/ incoterms-rules/incoterms-rules-2010/> 3. GS.TS. Nguyễn Văn Tiến (2010), Cẩm nang Thanh toán quốc tế & Tài trợ ngoại thương, NXB Thống kê. 4. TS. Nguyễn Thị Cẩm Thủy và cộng sự (2017), Giáo trình Giao dịch thương mại quốc tế, NXB Lao Động. nhận, phản hồi, chia sẻ thông tin về khách hàng (Nguyễn Trung Anh, 2019). Như vậy, có thể thấy ở thời điểm hiện tại, hoạt động của các công ty Fintech cũng như các sản phẩm dịch vụ cung ứng của những công ty này chưa thực sự làm thay đổi cơ cấu doanh thu, lợi nhuận cũng như hoạt động của các định chế tài chính truyền thống, thậm chí khó có thể cạnh tranh được với các NHTM, CTCK là những tổ chức có nền tảng khách hàng, hoạt động và uy tín tốt trên thị trường. Song về mặt dài hạn mức độ ảnh hưởng sẽ rõ ràng hơn, do đó cần có những điều chỉnh về mặt pháp lý cũng như điều hành chính sách vĩ mô của Chính phủ nhằm hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của Fitech, đặc biệt là đảm bảo ổn định hệ thống tài chính quốc gia. 3. Kết luận Cùng với sự phát triển chung của thế giới, Việt Nam cũng đang trong giai đoạn tham gia cuộc cách mạng công nghệ 4.0 và các công ty công nghệ tài chính FinTech cũng đang manh nha hình thành và gia nhập thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam. Nhờ ứng dụng FinTech mà xuất hiện các công tiếp theo trang 12 ty công nghệ tài chính hoạt động và cung cấp tất cả các dịch vụ của cả định chế tài chính ngân hàng và định chế tài chính phi ngân hàng truyền thống, đây là thách thức lớn cho các nhà quản lý chính ở Việt Nam về quản lý và phát triển ổn định thị trường tài chính cũng như là thách thức cho các định chế tài chính truyền thống. FinTech mới ra đời và đi vào hoạt động tại Việt Nam chưa lâu nên việc nghiên cứu về tác động của nó chưa nhiều, cả ở lí luận và thực tiễn, và đây chính là tính cấp thiết đặt ra việc cần có những nghiên cứu về tác động của FinTech đối với sự phát triển của các tổ chức định chế tài chính ở Việt Nam cũng như đối với tính an toàn và ổn định của hệ thống tài chính ■
File đính kèm:
- anh_huong_cua_cong_nghe_tai_chinh_den_an_toan_he_thong_tai_c.pdf