Âm nhạc giao hưởng tại Sài Gòn - Vài góp nhặt từ tư liệu
Tóm tắt
Với chặng đường gần một thế kỷ kể từ khi ra đời đến nay, nền âm nhạc mới Việt Nam trải qua nhiều
giai đoạn phát triển khác nhau với nhiều thành tích đáng tự hào mà một trong những đỉnh cao là thể loại
Giao hưởng. Trong khi những thành tựu của âm nhạc giao hưởng tại miền Bắc (giai đoạn trước năm
1975) được ghi nhận, tập hợp, thống kê và phổ biến khá rộng rãi thì những thành tựu của âm nhạc giao
hưởng miền Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng lại sớm rơi vào quên lãng do biến động của thời cuộc.
Tuy nhiên, nghệ thuật đích thực luôn xuất phát từ trái tim và những giá trị âm nhạc của quá khứ cần
được nhìn nhận lại một cách khách quan và trân trọng.
c bước vào nghề bằng cách tự học và trưởng thành trong quá trình tham gia kháng chiến chống Pháp thì ở giai đoạn này đã có thêm lớp nhạc sĩ, diễn viên, nhạc công được đào tạo bài bản tại Trường Âm nhạc Việt Nam, nhạc sĩ xuất thân từ các lớp tập huấn của chuyên gia nước ngoài tại miền Bắc Việt Nam, nhạc sĩ được Nhà Nước gửi đi học tại Liên Xô, Trung Quốc và các nước Đông Âu... đồng thời sử dụng giáo trình của các nước khối Xã Hội Chủ Nghĩa trong giảng dạy- nghiên cứu âm nhạc và đánh giá kết quả học tập trong các cơ sở đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp miền Bắc. Sáng tác Dưới tác động của nhiều yếu tố văn hóa - chính trị - xã hội, ca khúc vẫn là thể loại chiếm vị trí chủ đạo trong âm nhạc miền Nam giai đoạn 1945-1975. Tuy nhiên, những nhạc sĩ được đào tạo bài bản và đam mê khí nhạc vẫn duy trì con đường học thuật riêng của mình và đạt được một số thành tựu đáng kể. Một trong những nhạc sĩ tiêu biểu đó chính là Nghiêm Phú Phi. Ông tốt nghiệp Ưu hạng tại viện Quốc Gia Âm Nhạc Paris (Pháp) về Piano và Hòa Âm. Tác phẩm “Divertimento I” (1960) và “Divertimento II” (1965) của ông viết theo thang âm ngũ cung, phối hợp các nhạc khí dân tộc cổ truyền với dàn nhạc giao hưởng Tây phương, được trình ÂM NHẠC GIAO HƯỞNG TẠI SÀI GÒN - VÀI GÓP NHẶT TỪ TƯ LI U 108 diễn nhiều lần trước khán giả Việt Nam và quốc tế và được đánh giá cao bởi các nhà báo viết âm nhạc nước ngoài. Đặc biệt, trong tác phẩm “ pollo 14” (1971) do ông sáng tác và thu âm trực tiếp còn đưa những âm thanh thường được nghe trong các phim khoa học giả tưởng vào tác phẩm giao hưởng (là điều chưa có ai thực hiện trước đó). Tứ tấu dây “Fantasia I” (1974) được ông hoàn tất với nhiều thử nghiệm mới lạ trong cách diễn tấu. Ngoài ra các tác phẩm giao hưởng của nhạc sĩ - nhà chỉ huy dàn nhạc Nghiêm Phú Phi, còn có giao hưởng của nhạc sĩ Lê Văn Khoa (“Symphony Viet Nam 1975” - được sáng tác trong 20 năm và trình diễn lần đầu ở c năm 1995), một số tác phẩm khác viết ở hình thức lớn như: hợp xướng “Cửu Long Giang” (5 chương, Phan Miêng, 1972), trường ca, vũ kịch: “Kim Trọng Thúy Kiều” (1962 - 1966, Phạm Thế Mỹ); ca kịch nhỏ: “Hoa bướm và thiếu nữ” (1960, Phạm Thế Mỹ), “Nước mắt người yêu” (1961, Phạm Thế Mỹ); nhạc kịch: “Sắc lụa trữ la” (1958-1960, Phạm Thế Mỹ); các tác phẩm phối khí kết hợp giữa nhạc cụ dân tộc (chuông chùa, mõ, sáo Việt, trống chầu...) với dàn nhạc giao hưởng và nhiều hợp xướng tôn giáo viết ở hình thức lớn của linh mục nton Nguyễn Tiến Dũng... Trong lĩnh vực sáng tác âm nhạc chuyên nghiệp cùng khoảng thời gian này tại miền Bắc, đáng lưu ý có: phong trào sáng tác hợp xướng và sự ra đời của những tác phẩm thể nghiệm khai sinh cho các thể loại nhạc đàn và tổng hợp thanh - khí nhạc như: thể loại giao hưởng một chương, tổ khúc giao hưởng và thanh nhạc, thơ giao hưởng Một trong những biểu hiện của tính chuyên nghiệp trong âm nhạc miền Bắc thời kỳ này chính là mối quan tâm đến các thể loại âm nhạc ở hình thức lớn như: giao hưởng nhiều chương, nhiều phần, hợp xướng kết hợp với dàn nhạc giao hưởng, kịch múa và quy mô nhất là thể loại nhạc kịch (opéra). Ngay từ đầu thập niên sáu mươi, các nhạc sĩ miền Bắc đã tự đặt ra cho mình cái đích cuối cùng phải tiến tới là nhạc kịch Việt Nam. Biểu diễn Giai đoạn từ 1945- 1975, các hoạt động biểu diễn văn hóa văn nghệ ở Sài Gòn diễn ra khá mạnh mẽ. Với sự góp mặt từ rất sớm của các phòng trà, tiệm nhảy, cao lâu... nền nhạc mới phía Nam có nhiều điều kiện tiếp xúc và giao lưu với âm nhạc phương Tây, đặc biệt trong lĩnh vực ca khúc. Các hãng đĩa lớn đều được thành lập tại Sài Gòn như: Việt Nam, sia, Sóng Nhạc, Sơn Ca, Continental, Thiên Thai, Vô Tuyến cũng hoạt động thu âm và phát hành băng đĩa khá tích cực. Mỗi đài phát thanh lớn đều có ban nhạc cổ điển Tây phương được dàn dựng và chỉ huy bởi những nhạc sĩ tên tuổi đương thời như: đài phát thanh Pháp Á - nhạc sĩ Trần Cang, đài phát thanh Quân Đội - nhạc sĩ Văn Phụng, Dương Thiệu Tước (chương trình “Cổ kim hòa điệu”), đài phát thanh Sài Gòn - nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, Vũ Văn Tuynh... Hơn nữa, với việc thành lập Trường Quốc gia Âm nhạc, hoạt động biểu diễn âm nhạc chuyên nghiệp được chú trọng và trau dồi, đội ngũ những người biểu diễn âm nhạc phía Nam đã được bổ sung một cách đầy đủ và bài bản. Một số nhạc sư đang giảng dạy tại trường cũng là nghệ sĩ biểu diễn chuyên nghiệp đoạt giải thưởng quốc tế như: Đỗ Thế Phiệt (violin, giải Grand Prix du Violon 1954 và giải Danh dự về nhạc Thính Phòng 1957)... Bên cạnh các hoạt động chuyên môn diễn ra khá sôi nổi trong nước, âm nhạc NGUYỄN THỊ NGỌC DUNG 109 miền Nam còn đẩy mạnh hoạt động giao lưu quốc tế như: Đoàn Văn nghệ Việt Nam tham dự Hội chợ Quốc tế Expo 70 tại Osaka, Nhật Bản năm 1970 (gồm 100 nghệ sĩ tân cổ nhạc và vũ cổ truyền). Trong lĩnh vực biểu diễn âm nhạc chuyên nghiệp tại miền Bắc, có 1 một số sự kiện đáng chú ý xảy ra trong khoảng thời gian này như: Ngày 2 9 1945 ban nhạc Giải phóng quân đã chơi bài Tiến uân ca (hòa tấu kèn, dưới sự chỉ huy của nhạc sĩ Đinh Ngọc Liên) trong buổi lễ thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, bản hòa tấu “Vũ khúc tưng bừng” (chịu ảnh hưởng của thể loại valse thành Vienne) do nhạc sĩ Lương Ngọc Trác sáng tác cho dàn nhạc đã được trình diễn trong đêm Tuyên ngôn Độc lập. Sau đó là sự ra đời hàng loạt các đơn vị hoạt động biểu diễn âm nhạc chuyên nghiệp ở miền Bắc như: Dàn nhạc Giao hưởng Việt Nam được hình thành với 114 nhạc công (1959), Dàn Hợp xướng (1961), 2 năm sau hai đoàn này sát nhập, cộng thêm bộ phận múa để hình thành Nhà hát Giao hưởng - Hợp xướng - Vũ kịch Việt Nam (1963, tại Hà Nội) là tiền thân của Nhà hát Giao hưởng - Hợp xướng - Nhạc vũ kịch Việt Nam ngày nay; thành lập các đoàn ca múa nhạc chuyên nghiệp như: Đoàn ca nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam (1960), Đoàn ca múa Hà Nội (1960), Đoàn Ca múa Trung ương và Đoàn ca nhạc dân tộc Trung ương (1962)... 4. Thay lời kết Cho đến năm 1975, tại Việt Nam đã tồn tại 2 trung tâm hoạt động âm nhạc kinh viện khá hiệu quả là Hà Nội và Sài Gòn. Tuy quan điểm chính trị và phương hướng hoạt động khác nhau nhưng mỗi nơi đều có thế mạnh riêng, thành tựu riêng đáng được trân trọng và ghi nhận. Đối với Sài Gòn, đã hình thành một nền âm nhạc giao hưởng hoàn chỉnh với những nhạc sĩ có tên tuổi, được đào tạo bài bản trong nước và nước ngoài, có nhiều tác phẩm được quốc tế công nhận. Một trong những thành tựu đáng tự hào của âm nhạc giao hưởng Sài Gòn trong giai đoạn này chính là tính “thời sự” thể hiện trong tác phẩm, từ nội dung đến hình thức và cả những kỹ thuật sáng tác, thể hiện sự cập nhật của người nhạc sĩ đối với những bước tiến mới trong âm nhạc thế giới. Tuy nhiên, điều đáng buồn là hiện nay, các tư liệu âm thanh cũng như văn bản âm nhạc của thời kỳ này gần như đã thất lạc hết (do sự thay đổi về thời cuộc cũng như sự hạn chế trong quá trình lưu trữ), những ghi chép về tác giả-tác phẩm của giai đoạn này chỉ mang tính tản mạn, thể hiện hồi ức cá nhân của người trong cuộc, thiếu hẳn sự thẩm định và phân loại một cách hệ thống và khoa học. Chính vì vậy, mong sao các cơ quan chức năng, các đơn vị trong ngành và các cá nhân có tâm huyết với nghệ thuật cùng chung tay tìm kiếm, sưu tầm, khôi phục và phổ biến lại những giá trị âm nhạc đã mất. Như nhà soạn nhạc Gioachino Rossini đã từng nói: “Ngôn ngữ của âm nhạc là ngôn ngữ chung của tất cả mọi thế hệ và mọi dân tộc; ai cũng hiểu được nó, bởi nó được hiểu bằng trái tim” (2). Krakow-3.2017 Chú thích: (1) “ symphony must be like the world. It must contain everything” (2) “The language of music is common to all generations and nations; it is understood by everybody, since it is understood with the heart”. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Thụy Kha (2009), “60 năm âm nhạc Việt Nam - Nửa của chiến tranh, nửa thuộc thanh bình”, Tạp chí Sông Hương, số 199. ÂM NHẠC GIAO HƯỞNG TẠI SÀI GÒN - VÀI GÓP NHẶT TỪ TƯ LI U 110 2. Ngô Hoàng Linh (2015), “Sự phát triển nghệ thuật âm nhạc giao hưởng ở Việt Nam”, Tạp chí Sóng Nhạc, số 124. 3. Nguyễn Thị Nhung (2001), Âm nhạc Thính phòng Giao hưởng Việt Nam - Sự hình thành phát triển - tác giả - tác phẩm, Nxb Viện Âm nhạc. 4. Nguyễn Đình San (2006), Nhạc Việt Nam những vùng sáng tối, Nxb Thanh Niên. 5. Hữu Trịnh (2004), Sơ lược về tác phẩm âm nhạc giao hưởng Việt Nam, website giaidieuxanh.vn. 6. Nguyễn Thế Tuân (2006), Nhạc Giao hưởng Việt Nam - 1 tiến trình lịch sử, luận án tiến sĩ chuyên ngành nghệ thuật âm nhạc, Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam. 7. Tư liệu phỏng vấn NGƯT Nguyễn Văn Đời tại Nhạc viện TP.HCM ngày 6 8 2016. 8. Tô Vũ (2002), Âm nhạc Việt Nam - Truyền thống và hiện đại, Nxb Viện Âm nhạc. 9. Trần Nhật Vy (2000), “Tân nhạc Việt Nam từ năm 1911”, báo Tuổi trẻ xuân Canh Thìn. 10. Hội Nhạc sĩ Việt Nam (2007), Tự hào nửa thế kỷ Hội nhạc sĩ Việt Nam, Hội Nhạc sĩ Việt Nam xuất bản. 11. Viện Âm Nhạc (2000), Âm nhạc mới Việt Nam- tiến trình và thành tựu, Nxb Viện Âm nhạc. 12. Viện Âm Nhạc (2004), Hợp tuyển tài liệu nghiên cứu - lý luận - phê bình âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Viện Âm nhạc. 13. Viện Âm Nhạc (2005), Những tác phẩm giao hưởng Việt Nam, Nxb Viện Âm nhạc. 14. Viện Âm Nhạc (2007), Âm nhạc Việt Nam: tác giả-tác phẩm, Nxb Viện Âm nhạc. 15. Viện Âm Nhạc (2010), “Tổng tập Âm nhạc Việt Nam: Tác giả - Tác phẩm, Nxb Viện Âm nhạc. Website 1. www.vienamnhac.vn 2. www.tiengquehuong.wordpress.com 3. www.giaidieuxanh.vn 4. www.dinh.dk 5. www.tranquanghai.info 6. www.hoinhacsi.com.vn 7. www.vnam.edu.vn 8. www.hcmcons.vn 9. www.nguyenthiendao.com 10. www.tonthattiet.com 11. www.dongnhacxua.com www.brainyquote.com Ngày nhận bài: 14/3/2017 Biên tập xong: 15/8/2017 Duyệt đăng: 20 8 2017
File đính kèm:
- am_nhac_giao_huong_tai_sai_gon_vai_gop_nhat_tu_tu_lieu.pdf